Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.868644 hoặc email: [email protected]. Xin trân trọng cảm ơn!
Một trong những trường hợp mà thực hiện tạm hoãn hợp đồng lao động là khi người lao động bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, như quy định tại điểm b, khoản 1 của Điều 30 trong Bộ Luật Lao động 2019.
Trong khoảng thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động sẽ không nhận được lương và mất đi quyền, lợi ích đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trừ khi có thỏa thuận khác giữa hai bên hoặc khi có quy định khác từ pháp luật.
Do đó, thay vì chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động chỉ có khả năng tạm hoãn hợp đồng lao động đối với người lao động đang bị tạm giam. Trong thời gian này, người lao động sẽ không hưởng lương và mất quyền, lợi ích đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trừ khi có thỏa thuận khác giữa hai bên.
Điểm b của Điều 30 trong Bộ Luật Lao động năm 2019 ghi nhận trường hợp người lao động bị tạm giữ hoặc tạm giam theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc hợp đồng lao động bị tạm hoãn thực hiện. Theo khoản 2 của Điều này, trong thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động sẽ không nhận lương và mất quyền lợi đã được thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc có quy định khác của pháp luật.
Do đó, người lao động bị tạm giam sẽ không được trả lương. Tuy nhiên, nếu giữa hai bên có thỏa thuận về việc trả lương hoặc hỗ trợ tài chính cho người lao động bị tạm giam, thì người này vẫn có quyền nhận những quyền lợi đã thỏa thuận.
Cần lưu ý rằng lý do bị tạm giam không phải là cơ sở để chấm dứt hợp đồng lao động. Vì vậy, người lao động chỉ bị tạm hoãn hợp đồng mà không thể bị sa thải. Trong trường hợp muốn chấm dứt hợp đồng lao động, sự đồng thuận của cả hai bên hoặc sự tuân thủ các quy định của pháp luật là cần thiết.
Theo quy định của Điều 30 trong Bộ Luật Lao động năm 2019, trong thời gian bị tạm giam, người lao động sẽ không được hưởng lương và mất đi quyền, lợi ích đã được thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Điều này có thể dẫn đến việc người lao động không còn được hưởng các quyền lợi liên quan đến bảo hiểm.
Đặc biệt, theo quy định tại khoản 7 của Điều 42 trong Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017, trong trường hợp người lao động bị tạm giam, tạm giữ để điều tra và xem xét có vi phạm pháp luật hay không, thì người lao động và đơn vị làm việc của họ sẽ tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Do đó, trong thời gian bị tạm giam, người lao động sẽ không đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, họ vẫn phải đóng bảo hiểm y tế với tỷ lệ là 4,5% của 50% mức tiền lương tháng mà họ được hưởng.
Nếu sau thời gian tạm giam, cơ quan có thẩm quyền xác định rằng người lao động không vi phạm pháp luật, thì họ sẽ được đóng bù các loại bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, và còn có quyền truy đóng bảo hiểm y tế trên số tiền lương được truy lĩnh.
Ngược lại, nếu cơ quan có thẩm quyền kết luận rằng người lao động có tội, họ sẽ không được đóng bù các loại bảo hiểm bắt buộc.
Một thiệt thòi khác đối với người lao động bị tạm giam là họ sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi hợp đồng lao động của họ bị chấm dứt trong thời gian tạm giam. Quy định về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Điều 49 của Luật Việc làm năm 2013 đã loại trừ trường hợp người lao động bị tạm giam hoặc chấp hành hình phạt tù.
Cụ thể, theo khoản 4 của Điều này, để hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải không tìm được việc làm trong vòng 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, có ngoại lệ đối với những trường hợp như thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, đi học tập có thời hạn từ 12 tháng trở lên, bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù, hoặc ra nước ngoài định cư, và các trường hợp khác.
Do đó, người lao động bị tạm giam sẽ không có quyền hưởng trợ cấp thất nghiệp trong thời gian bị tạm giam, do bị loại trừ theo quy định của Luật Việc làm.
Dựa vào quy định của Điều 34, Điều 36 và Điều 125 trong Bộ Luật Lao động 2019, người sử dụng lao động có thể chấm dứt hợp đồng với người lao động mà không cần sự đồng ý của họ trong những tình huống sau đây:
- Người lao động bị kết án tù mà không được hưởng án treo, không được trả tự, bị tử hình hoặc cấm làm công việc theo quyết định có hiệu lực của Tòa án.
- Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo quyết định có hiệu lực của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.
- Người lao động chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.
- Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.
- Người sử dụng lao động là tổ chức chấm dứt hoạt động hoặc bị Sở Kế hoạch và Đầu tư thông báo không có người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền của họ.
- Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải.
- Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
- Người sử dụng lao động cho thôi việc do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ, lý do kinh tế; chia, tách, sáp nhập, hợp nhất; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình; chuyển nhượng quyền sở hữu, sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Giấy phép lao động của lao động nước ngoài đã hết hiệu lực.
Có thể nhận thấy, bị tạm giam không được coi là lý do để chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định. Nếu doanh nghiệp chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động đang bị tạm giam mà không tuân theo các điều kiện quy định, hành vi này sẽ bị xem là vi phạm pháp luật và được coi là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị tạm giữ, theo quy định của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ Công an cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy chế pháp lý liên quan đến công tác giam giữ, nhằm tránh tối đa "sự tùy nghi" trong việc áp dụng pháp luật. Điều này bao gồm cần thiết lập quy định chi tiết về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giữ, và tăng cường điều kiện giam giữ cũng như các chế độ khác cho nhóm đối tượng tạm giữ.
Người bị tạm giữ và người bị tạm giam có những đặc điểm khác nhau, do đó, cần có sự rõ ràng về quyền và nghĩa vụ đối với từng nhóm đối tượng. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như cấm rời khỏi nơi cư trú, đặt tiền đảm bảo, bảo lãnh, phải được thực hiện đối với mỗi đối tượng một cách hợp lý.
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đã được ban hành để rõ ràng và cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của những người bị tạm giữ và tạm giam, thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước. Tuy nhiên, để đảm bảo việc thực thi Luật một cách đầy đủ trong thực tế, các cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là lực lượng Công an cần phải có những điều chỉnh trong công tác giam giữ để tối ưu hóa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị tạm giữ và tạm giam.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định rằng "Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân. Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Không một ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp có lý do và phải theo đúng thủ tục mà luật pháp đã quy định. Bất cứ người nào là nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường" và "Những người bị tước đoạt tự do phải được đối xử nhân đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người."
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/nguoi-lao-dong-bi-tam-giam-se-mat-cac-quyen-loi-gi-a19280.html