Theo Nghị định 70/2023/NĐ-CP, yêu cầu đối với chuyên gia, giám đốc điều hành và lao động kỹ thuật nước ngoài đã được điều chỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi làm việc tại Việt Nam.
Trước đây, quy định yêu cầu chuyên gia phải có bằng đại học chuyên ngành tương ứng với công việc dự kiến. Tuy nhiên, kể từ ngày 18/9/2023, chuyên gia chỉ cần tốt nghiệp đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc phù hợp với vị trí công việc tại Việt Nam.
Theo quy định mới, giám đốc điều hành không chỉ đơn thuần là người đứng đầu và trực tiếp điều hành đơn vị trực thuộc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà còn bao gồm:
- Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
- Người đứng đầu và trực tiếp điều hành ít nhất 01 lĩnh vực trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp từ người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Đối với lao động kỹ thuật nước ngoài, không còn yêu cầu là phải làm việc trong chuyên ngành được đào tạo, thay vào đó, chỉ cần được đào tạo ít nhất 01 năm và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm phù hợp với vị trí công việc dự kiến tại Việt Nam.
Những điều chỉnh này nhằm mở rộng cơ hội cho chuyên gia, giám đốc điều hành và lao động kỹ thuật nước ngoài tham gia vào các hoạt động kinh doanh và đóng góp vào phát triển kinh tế của Việt Nam. Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cảnh và làm việc của họ trong nước.
Theo quy định mới ban hành, việc rút ngắn thời hạn báo cáo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đã mang lại một sự linh hoạt và tiết kiệm thời gian đáng kể cho các doanh nghiệp. Trước khi sử dụng lao động nước ngoài, người sử dụng lao động (trừ nhà thầu) vẫn cần thực hiện thủ tục xác định nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài cho từng vị trí việc làm mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, thời hạn báo cáo đã được rút ngắn xuống còn 15 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng lao động nước ngoài, so với thời hạn 30 ngày theo quy định cũ.
Sự thay đổi này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có thể báo cáo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài gần đến thời điểm thực tế của việc sử dụng lao động này. Điều này giúp tăng tính linh hoạt và đáp ứng nhanh chóng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài khi cần thiết. Thay vì phải chuẩn bị và báo cáo trước 30 ngày, doanh nghiệp chỉ cần chuẩn bị và báo cáo trước 15 ngày, giúp tiết kiệm thời gian và tăng khả năng đáp ứng nhanh chóng.
Ngoài ra, quy định cũng đề cập đến trường hợp nếu có bất kỳ thay đổi nào liên quan đến nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài như: thay đổi vị trí, chức danh, hình thức làm việc, số lượng, hoặc địa điểm làm việc, người sử dụng lao động phải báo cáo cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trước ít nhất 15 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng lao động nước ngoài. Điều này đảm bảo rằng các cơ quan có thể cập nhật thông tin và xem xét các yếu tố mới để đưa ra quyết định chính xác và kịp thời liên quan đến sử dụng lao động nước ngoài.
Rút ngắn thời hạn báo cáo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đã mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và cơ quan chức năng. Doanh nghiệp có thể linh hoạt và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, trong khi cơ quan chức năng có thể có thông tin cập nhật và quản lý hiệu quả hơn về việc sử dụng lao động nước ngoài trong địa bàn của mình. Điều này góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong việc quản lý lao động nước ngoài.
Rút ngắn thời hạn báo cáo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và sử dụng lao động nước ngoài khi nguồn lao động trong nước không đáp ứng được. Thay vì chờ đợi 30 ngày, doanh nghiệp chỉ cần chuẩn bị và báo cáo trước 15 ngày, giúp tiết kiệm thời gian quan trọng trong quá trình tuyển dụng và triển khai công việc. Điều này đặc biệt quan trọng trong các dự án có yêu cầu thời gian nhanh, nơi mà việc sử dụng lao động nước ngoài có thể đóng góp quan trọng vào sự thành công của dự án.
Đồng thời, việc rút ngắn thời hạn báo cáo cũng tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng, như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, để có được thông tin cập nhật và quản lý hiệu quả hơn về việc sử dụng lao động nước ngoài trong địa bàn của mình. Thời gian ngắn hơn giúp cơ quan chức năng có thể nhanh chóng xem xét và đưa ra quyết định liên quan đến việc cấp phép sử dụng lao động nước ngoài. Điều này đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình quản lý lao động nước ngoài, đồng thời giảm thiểu rủi ro của việc sử dụng lao động nước ngoài trái phép.
Sự rút ngắn thời hạn báo cáo cũng cho phép các doanh nghiệp linh hoạt thay đổi nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài khi cần thiết. Trong trường hợp có thay đổi về vị trí, chức danh, hình thức làm việc, số lượng, hoặc địa điểm làm việc, doanh nghiệp chỉ cần báo cáo trước ít nhất 15 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng lao động nước ngoài. Điều này giúp đảm bảo rằng quyền lợi của cả doanh nghiệp và người lao động nước ngoài được bảo vệ và đáp ứng đúng thời hạn.
Nghị định 70/2023/NĐ-CP về lao động nước ngoài đã mang đến một điểm mới quan trọng, đó là thay đổi thẩm quyền cấp văn bản chấp thuận sử dụng lao động nước ngoài. Điều này đã thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp.
Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 70/2023/NĐ-CP, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ có thẩm quyền ra văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận việc sử dụng lao động nước ngoài cho từng vị trí công việc mà người sử dụng lao động đã báo cáo. Thời hạn ra văn bản này được quy định là trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo giải trình hoặc báo cáo giải trình thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài.
Trước đây, quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận việc sử dụng lao động nước ngoài thuộc về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh. Tuy nhiên, Nghị định 70 đã thay đổi điều này bằng việc giao thẩm quyền cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, thay thế cho UBND tỉnh, để thực hiện việc ra văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận việc sử dụng lao động nước ngoài.
Việc thay đổi này nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước về tuyển dụng và quản lý người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, từ cấp trung ương đến địa phương. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ thống nhất quản lý nhà nước về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài trên toàn quốc, bao gồm cả việc quản lý người Việt làm việc cho tổ chức hay cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ đảm nhận vai trò thống nhất trong việc quản lý lao động nước ngoài tại địa phương, bao gồm cấp phép cho lao động nước ngoài. Điều này sẽ tạo ra sự hiệu quả và sự linh hoạt trong quá trình quản lý lao động nước ngoài, đồng thời đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của các doanh nghiệp địa phương.
Trong trường hợp có sự thay đổi về thông tin, một trong những lý do mà doanh nghiệp phải làm thủ tục cấp lại giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài là khi có sự thay đổi về các thông tin cá nhân. Thông tin này bao gồm họ và tên, quốc tịch, số hộ chiếu và địa điểm làm việc.
Đôi khi, doanh nghiệp có thể đổi tên mà không thay đổi mã số doanh nghiệp của mình. Trong trường hợp này, khi doanh nghiệp thực hiện việc đổi tên, người sử dụng lao động nước ngoài đang làm việc cho doanh nghiệp này sẽ cần phải làm thủ tục đổi giấy phép lao động.
Quá trình đổi giấy phép lao động bắt đầu với việc doanh nghiệp phải tạo ra đơn xin cấp lại giấy phép lao động cho người lao động trong trường hợp thay đổi thông tin cá nhân hoặc đổi tên doanh nghiệp. Đơn này phải được nộp tới cơ quan chức năng có thẩm quyền, thường là Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tại địa phương.
Đơn xin cấp lại giấy phép lao động cần được điền đầy đủ thông tin cá nhân của người lao động nước ngoài, bao gồm cả thông tin mới nếu có. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần đính kèm các giấy tờ chứng minh về sự thay đổi thông tin, như giấy tờ xác nhận thay đổi tên doanh nghiệp hoặc các giấy tờ tương tự.
Sau khi nhận được đơn xin cấp lại giấy phép lao động và các giấy tờ liên quan, cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét và xác minh thông tin. Quá trình này có thể bao gồm việc kiểm tra hồ sơ, liên hệ với doanh nghiệp hoặc người lao động để xác nhận thông tin mới.
Nếu thông tin được xác minh là hợp lệ, cơ quan chức năng sẽ thực hiện việc cấp lại giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài. Giấy phép mới sẽ bao gồm các thông tin mới đã được thay đổi. Thời gian cấp lại giấy phép có thể tùy thuộc vào quy trình xử lý của cơ quan chức năng và yêu cầu pháp lý tại địa phương.
Sau khi nhận được giấy phép lao động mới, doanh nghiệp cần chuyển giao giấy phép này cho người lao động nước ngoài. Người lao động sẽ tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp với các thông tin cá nhân đã được cập nhật trong giấy phép mới.
Nghị định số 70/2023/NĐ-CP đã đưa ra một số thay đổi quan trọng liên quan đến quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, bãi bỏ một số quy định có trong Nghị định số 35/2022/NĐ-CP.
Trước tiên, Nghị định này đã loại bỏ cụm từ "Cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế" và cụm từ "tiếp nhận báo cáo tình hình sử dụng người lao động nước ngoài" tại điểm đ khoản 2 Điều 68 của Nghị định 35/2022/NĐ-CP. Điều này có nghĩa là Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế sẽ không tiến hành các thủ tục liên quan đến cấp phép lao động và xác nhận người lao động nước ngoài làm việc trong khu công nghiệp và khu kinh tế. Thay vào đó, các thủ tục này sẽ được chuyển giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài làm việc.
Thứ hai, Nghị định 70/2023/NĐ-CP cũng đã loại bỏ cụm từ "tiếp nhận báo cáo giải trình của doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế về nhu cầu sử dụng người nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người Việt Nam chưa đáp ứng được" tại điểm c khoản 3 Điều 68 của Nghị định 35/2022/NĐ-CP. Điều này có nghĩa là Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế sẽ không tiếp nhận báo cáo giải trình từ các doanh nghiệp về nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đối với các vị trí công việc mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được. Thay vào đó, quyền thực hiện các thủ tục này sẽ thuộc về các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được ủy quyền bởi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND cấp tỉnh.
Từ ngày 18/9/2023, Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế sẽ không thực hiện các thủ tục liên quan như cấp, cấp lại, gia hạn và thu hồi Giấy phép lao động, cũng như không tiếp nhận báo cáo tình hình sử dụng người lao động nước ngoài qua Cổng dịch vụ công quốc gia. Tất cả các thủ tục này sẽ được chuyển sang Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài làm việc tiến hành.
6. Phải báo cáo khi lao động nước ngoài làm việc tại nhiều tỉnh, thành thì
Điểm mới của Nghị định 70/2023/NĐ-CP về lao động nước ngoài tại Việt Nam là một yêu cầu đáng chú ý khác cần được lưu ý. Theo đó, nếu một người lao động nước ngoài làm việc cho một người sử dụng lao động tại nhiều tỉnh, thành phố khác nhau, người sử dụng lao động phải báo cáo về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài đến làm việc.
Thời hạn thực hiện báo cáo là trong vòng 03 ngày làm việc kể từ ngày người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc. Để thuận tiện cho quá trình báo cáo, việc thực hiện báo cáo sẽ được tiến hành trực tuyến, thông qua hình thức gửi thông tin và hồ sơ qua mạng internet.
Hồ sơ báo cáo cần chuẩn bị bao gồm Mẫu số 17/PLI, được sử dụng để báo cáo tình hình người lao động nước ngoài đến làm việc. Mẫu số này sẽ yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết về người lao động nước ngoài, bao gồm thông tin cá nhân, thông tin về giấy phép lao động, hợp đồng lao động và các thông tin liên quan khác. Người sử dụng lao động có trách nhiệm điền đầy đủ và chính xác các thông tin trong mẫu số này và gửi nó đúng thời hạn quy định.
Sự bổ sung yêu cầu báo cáo này nhằm tăng cường tính minh bạch và cải thiện việc theo dõi lao động nước ngoài làm việc tại nhiều địa phương trong Việt Nam. Bằng việc tập trung thông tin này tại cấp quốc gia và cấp tỉnh, các cơ quan có thể có cái nhìn tổng quan về việc sử dụng lao động nước ngoài và đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành.
Hình thức thực hiện báo cáo trực tuyến giúp rút ngắn thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả trong việc quản lý việc sử dụng lao động nước ngoài.
Ngoài ra, việc nộp đúng hồ sơ Mẫu số 17/PLI cho phép các cơ quan có thẩm quyền xử lý kịp thời các vấn đề có thể phát sinh liên quan đến việc làm của người lao động nước ngoài. Điều này giúp đảm bảo tính hợp pháp trong việc sử dụng lao động, đảm bảo điều kiện làm việc thích hợp và theo dõi việc tuân thủ các quy định và luật lao động.
Trong trường hợp quý bạn đọc có bất cứ khúc mắc nào về bài viết hay pháp luật vui lòng liên hệ trực tiếp tổng đài 1900.868644 hoặc email: [email protected] để được Luật Minh Khuê hỗ trợ giải đáp.
Trân trọng cảm ơn quý khách!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/diem-moi-ve-su-dung-lao-dong-nuoc-ngoai-tai-nghi-dinh-702023nd-cp-a19347.html