Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
- Di chúc không có hiệu lực nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn còn hiệu lực.
Di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
- Trường hợp một người đển lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế, phân chia di sản thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, các định đoạt về quản lý di sản...
Bản thân di chúc đã thể hiện ý chí tự định đoạt rất cao của người để lại di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình sau khi qua đời cho những người còn sống. Pháp luật không can thiệp sâu vào sự tự do ý chí ấy, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là quyền định đoạt ấy không chịu sự ràng buộc nào của pháp luật.
Cũng như trong các lĩnh vực pháp luật khác, ý chí tự định đoạt của người lập di chúc phải phù hợp với ý chí của nhà nước, đạo đức xã hội, tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại Điều 8, Điều 10, Điều 11 về tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và nguyên tắc tuân thủ pháp luật. Nếu di chúc có nội dung trái với pháp luật và đạo đức xã hội, trái với nguyên tắc nói trên thì có thể bị coi là vô hiệu.
Trên thực tế, thể hiện của vi phạm này khá đa dạng và để xác định mức độ vi phạm dẫn đến di chúc vô hiệu trong nhiều trường hợp khá khó khăn, đặc biệt khi cho rằng điều đó trái với đạo đức xã hội. Khi xem xét cần căn cứ nhiều yếu tố để xác định mức độ xâm phạm, vi phạm để có kết luận chính xác.
Mặt khác, theo quy định của Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015, nội dung của di chúc bằng văn bản ghi rõ những nội dung cơ bản và cần thiết của di chúc như: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, tổ chức được hưởng di sản; Di sản để lại và nơi có di sản; Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Về kỹ thuật, di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Khi một người quyết định lập di chúc bằng văn bản và không có người làm chứng thì di chúc này phải có đầy đủ nội dung của một di chúc thông thường theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2015. Di chúc này, theo quy định tại Điều 633 Bộ luật Dân sự năm 2015, phải do người lập di chúc tự viết và tự ký chữ ký của mình vào nội dung di chúc. Trường hợp di chúc có nhiều trang, nhiều tờ thì người lập di chúc phải ghi đầy đủ số thứ tự và đồng thời ký vào từng trang của di chúc.
Đồng thời và di chúc không được viết tắt, cũng không được viết hay chú thích bằng ký hiệu. Người lập di chúc, nếu có sửa chữa, tẩy xóa một nội dung nào của di chúc thì phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa đó để xác minh việc họ tự sửa chữa, tẩy xóa chứ không phải do người khác thực hiện, đảm bảo tính hợp pháp của di chúc.
Việc lựa chọn lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng, theo quy định tại Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015, được áp dụng trong trường hợp người lập di chúc tự mình viết di chúc và có yêu cầu người làm chứng hoặc thuộc trường hợp người lập di chúc không tự mình viết di chúc, nhưng tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc. Đối với di chúc được lập trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật thì di chúc phải có ít nhất hai người làm chứng.
Người lập di chúc còn phải ký tên hoặc điểm chỉ vào nội dung di chúc trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Những người làm chứng sau khi đã chứng kiến về việc ký tên hay điểm chỉ của người lập di chúc thì phải xác nhận về chữ ký, hay điểm chỉ của người lập chúc vào nội dung di chúc. Đồng thời, người làm chứng cũng phải ký tên dưới nội dung xác nhận về chữ ký, điểm chỉ nêu trên để đảm bảo tính chất pháp lý.
Việc lập di chúc bằng văn bản được công chứng có thể thực hiện qua việc người lập di chúc đến Văn phòng công chứng, hoặc Tổ chức hành nghề công chứng để lập hoặc yêu cầu công chứng viên đến tận chỗ ở của mình để lập di chúc.
Việc lập di chúc có công chức được thực hiện theo đúng thủ tục như sau:
- Người lập di chúc sẽ phải tuyên bố nội dung, nguyện vọng của mình về việc định đoạt tài sản, cũng như các nội dung khác của di chúc định lập trước mặt của công chứng viên.
- Công chứng viên sẽ phải lắng nghe, ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc, chủ sở hữu tài sản đã đọc, tuyên bố.
- Sau khi đọc, kiểm tra nội dung bản di chúc được công chứng viên ghi chép lại xem đã chính xác, đúng với nguyện vọng, ý chí, mong muốn của mình hay chưa thì người lập di chúc sẽ phải trực tiếp ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc này.
- Công chứng viên sẽ trực tiếp ký vào bản di chúc và thực hiện việc công chứng di chúc.
Trong trường hợp đặc biệt, khi người lập di chúc có khuyết tật, khiếm khuyết một số chức năng nhất định như không đọc được, hoặc không nghe được bản di chúc; hoặc không ký hay điểm chỉ được vào nội dung di chúc thì để đảm bảo tính khách quan, đảm bảo quyền lợi của người lập di chúc, pháp luật yêu cầu việc lập di chúc sẽ phải có sự tham gia của người làm chứng. Người làm chứng này sẽ phải xác nhận về nội dung di chúc, chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc, và ký xác nhận trước mặt công chứng viên. Sau đó, công chứng viên sẽ công chứng di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng này.
Đối với việc lập di chúc bằng văn bản được chứng thực thì người lập di chúc sẽ trực tiếp đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình cư trú để thực hiện việc lập di chúc. Về trình tự, thủ tục lập di chúc có chứng thực sẽ được thực hiện tương tự như trường hợp lập di chúc ở Văn phòng công chứng, tổ chức hành nghề công chứng.
Như vậy, có thể thấy, trong số các loại di chúc bằng văn bản nêu trên, các loại di chúc bằng văn bản đều có tính pháp lý tương đương nhau. Tuy nhiên di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực sẽ bảo đảm về tính pháp lý hơn vì khi đó tính hợp pháp của di chúc đã được xác minh, chứng thực bởi cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy mà khi lập di chúc bằng văn bản được công chứng chứng thực thì rất ít khi xảy ra tranh chấp.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Khi nào di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần? mà Công ty Luật Hòa Nhựt muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại: 1900.868644 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: [email protected] để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Hòa Nhựt xin trân trọng cảm ơn!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/khi-nao-di-chuc-khong-co-hieu-luc-toan-bo-hoac-mot-phan-a19544.html