Tài nguyên của một quốc gia cơ bản được đo lường bằng giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên hoặc lợi nhuận thu được từ việc khai thác chúng. Nói một cách khác, giá trị tài nguyên là sự chênh lệch giữa doanh thu thực tế từ việc khai thác tài nguyên và chi phí thực tế đã phải chi trả để đạt được doanh thu đó. Điều này là một khái niệm kinh tế liên quan chặt chẽ đến chế độ sở hữu tài nguyên. Khi không có sự phân chia giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng tài nguyên, khái niệm giá trị tài nguyên không xuất hiện. Tuy nhiên, khi có sự phân biệt giữa người sở hữu và người khai thác, giữa người sử dụng và người lao động trực tiếp, khái niệm giá trị tài nguyên trở nên rõ ràng. Trong trường hợp người sở hữu tài nguyên là Nhà nước, giá trị tài nguyên mà người khai thác và sử dụng phải trả là thuế tài nguyên. Do quyền sở hữu tài nguyên thuộc về Nhà nước, doanh nghiệp khai thác và sử dụng phải nộp thuế tài nguyên để có quyền tiếp cận và sử dụng các nguồn tài nguyên. Số tiền thu được từ thuế tài nguyên sau đó sẽ được Nhà nước sử dụng để bảo đảm các hoạt động của mình hoặc để đầu tư vào phát triển.
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, tại Điều 53, đã quy định rõ ràng về quyền sở hữu và quản lý tài nguyên, đặc biệt là đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý. Theo quy định này, những tài sản này là tài sản công, thuộc sở hữu toàn dân, được Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Ở Việt Nam, quyền sở hữu tài nguyên khoáng sản thuộc về toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Điều này áp đặt nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên đối với mọi tổ chức và cá nhân tham gia khai thác tài nguyên khoáng sản. Thuế tài nguyên, mặc dù chia sẻ một số đặc điểm chung với các loại thuế khác, nhưng cũng có những đặc điểm riêng biệt. Đầu tiên, nó là một khoản thu bắt buộc đối với tất cả các đối tượng khai thác tài nguyên. Thứ hai, thuế tài nguyên có thể là thuế gián thu hoặc thuế trực thu, phụ thuộc vào việc đánh thuế dựa trên lợi nhuận của doanh nghiệp khai thác hay giá trị sản lượng khai thác.
Điều đáng chú ý là hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo, thường gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và cuộc sống xung quanh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không tính toán đầy đủ chi phí của những ảnh hưởng này vào chi phí sản xuất, dẫn đến việc khai thác tài nguyên mang lại chi phí ngoại ứng tiêu cực cho xã hội mà không được tính đến trong lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều này có thể dẫn đến việc khai thác tài nguyên không hiệu quả cho xã hội, và vì vậy, cần có sự can thiệp của Chính phủ thông qua việc đánh thuế để điều chỉnh chi phí khai thác sao cho phản ánh đúng chi phí xã hội.
Theo quy định của Điều 2 Luật Thuế Tài nguyên 2009 (đã được sửa đổi bởi Điều 4 Luật Sửa đổi các Luật về Thuế 2014), cùng với Điều 2 của Thông tư 152/2015/TT-BTC và các hướng dẫn thuế tài nguyên, nhóm đối tượng chịu thuế tài nguyên bao gồm những tài nguyên thiên nhiên nằm trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Cụ thể, các đối tượng chịu thuế tài nguyên bao gồm:
- Khoáng sản kim loại.
- Khoáng sản không kim loại.
- Sản phẩm của rừng tự nhiên, bao gồm thực vật và sản phẩm khác của rừng tự nhiên, trừ động vật và hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người nộp thuế trồng tại khu vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ.
- Hải sản tự nhiên, bao gồm động vật và thực vật biển.
- Nước thiên nhiên, bao gồm nước mặt và nước dưới đất, trừ nước dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và nước biển để làm mát máy.
Nước biển làm mát máy phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường, hiệu quả sử dụng nước tuần hoàn và điều kiện kinh tế kỹ thuật chuyên ngành được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Trong trường hợp sử dụng nước biển gây ô nhiễm và không đạt tiêu chuẩn môi trường, quy định xử lý theo Nghị định số 179/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
- Yến sào thiên nhiên, ngoại trừ yến sào do tổ chức và cá nhân thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà để dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác. Yến sào từ hoạt động này cần tuân thủ quy định tại Thông tư số 35/2013/TT-BNNPTNT và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
- Tài nguyên thiên nhiên khác, do Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan báo cáo Chính phủ để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định.
Do đó, yến sào thiên nhiên và yến sào được nuôi từ việc xây dựng nhà để thu hút chim yến tự nhiên là những đối tượng phải chịu thuế tài nguyên. Theo Khoản 1 của Điều 4 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP, yến sào từ hoạt động nuôi chim yến không thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên. Tuy nhiên, việc nuôi yến này phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Trước ngày 05/03/2020, người nuôi yến cần tuân thủ quy định của Thông tư số 35/2013/TT-BNNPTNT, ban hành ngày 01 tháng 7 năm 2013 bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, quy định tạm thời về quản lý nuôi chim yến. Sau ngày 05/03/2020, người nuôi yến cần tuân theo hướng dẫn chi tiết trong Nghị định 13/2020/NĐ-CP, thực hiện Hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi.
Thuế tài nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững với những ảnh hưởng tích cực đặc biệt đối với việc quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là trong trường hợp của các tài nguyên không tái tạo.
Thuế tài nguyên chính là công cụ quan trọng, góp phần điều tiết việc khai thác và sử dụng tài nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả và hợp lý. Trong ngữ cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này thường đi kèm với những thách thức về tàn phá môi trường và cạn kiệt tài nguyên. Nhiều quốc gia đã nhận thức rằng các chính sách thương mại, tài nguyên và môi trường cần phối hợp để hỗ trợ nhau, đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững và duy trì sự cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu của các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, là tận dụng nguồn lực tài nguyên thiên nhiên để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững, thu nhập từ khai thác các tài nguyên không tái tạo cần được hợp lý sử dụng. Thuế tài nguyên, trong trường hợp này, không chỉ là một nguồn thu ngân sách quan trọng mà còn là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế và đồng thời bảo vệ nguồn thu ngân sách trong bối cảnh toàn cầu hóa. Các nguồn thu nhập này có thể được đầu tư vào các lĩnh vực có chiều dài và tính bền vững, góp phần vào việc xây dựng nền kinh tế vững mạnh và thích ứng với thách thức của thế giới ngày nay.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật Hòa Nhựt về vấn đề: Yến sào thiên nhiên có thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên không? Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/yen-sao-thien-nhien-co-thuoc-doi-tuong-chiu-thue-tai-nguyen-khong-a20088.html