Người thân thích là những người có quan hệ thân thuộc và thích thuộc với một người.
Người thân thích có thể là những người thân thuộc - những người có mối quan hệ huyết thống theo trực hệ hoặc bàng hệ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình hoặc là những người thích thuộc - những người có quan hệ họ hàng được hình thành từ quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “người thân thích” ở mỗi lĩnh vực lại có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ như:
Tại Luật thi hành án dân sự năm 2014, đó là vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng của đương sự.
Tại Luật hôn nhân gia đình 2014, đó là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.
Tại Luật công chứng 2014, Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 110/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, đó là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con nuôi;
Tại Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ.
Tại Nghị định 76/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật tố cáo, đó là vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố mẹ bên vợ hoặc bên chồng, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột.
Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, tại Điểm e Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có giải thích: “Người thân thích của người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là người có quan hệ với người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột.”
Vì vậy, tùy trường hợp mà xem xét mối quan hệ thân thích khác nhau để áp dụng vào thực tiễn.
Có một vấn đề phát sinh khi tiến hành áp dụng pháp luật tố tụng hinhg sự, đó là việc chứng minh mối quan hệ thân thích của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của cơ quan nào; Thời điểm chứng minh từ bao giờ; Cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận mối quan hệ thân thích; Nếu hoạt động tố tụng có vi phạm thì giải quyết ra sao…
Mặt khác, Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định, một trong những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là “chứng minh đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt”, không bắt buộc phải chứng minh đặc điểm về nhân thân của các diện người tham gia tố tụng khác cũng như của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể.
“Điều 85. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Như vậy, theo quan điểm riêng của người viết, pháp luật nên bổ sung quy định về chứng minh về quan hệ thân thích trong vụ án hình sự để quá trình xét xử cũng như quyết định của Tòa án được chính xác, toàn diện hơn.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại Điều 49 như sau:
“Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:
1. Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo;
2. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;
3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.”
Cụ thể hơn,
– Đối với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu là người thân thích của bị hại, đương sự hoặc bị can, bị cáo. Ngoài ra, Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi khi thuộc trường hợp họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau tại Điểm b Khoản 1 Điều 53 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
– Đối với người chứng kiến, hững người là người thân thích của người bị buộc tội, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì không được làm người chứng kiến tại Điểm a Khoản 2 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
– Đối với người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật phải từ chối tham gia tố tụng nếu là người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo tại Điểm a Khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
– Đối với người định giá tài sản, người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc trong trường hợp là người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo tại Điểm a Khoản 5 Điều 69 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
– Đối với người phiên dịch, người dịch thuật, học có quyền đề nghị cơ quan yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa tại Điểm b Khoản 2 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đồng thời, người phiên dịch, người dịch thuật phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi là người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo tại Điểm a Khoản 4 Luật này.
– Đối với người bào chữa, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định người thân thích của người đã và đang tiến hành tố tụng đối với vụ án đó cũng không được bào chữa tại Điểm a Khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Chi tiết hơn về lựa chọn, chỉ định người bào chữa, thay đổi hoặc từ chối người bào chữa, thủ tục bào chữa được quy định từ Điều 75 đến Điều 78 Luật này.
– Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có người thân thích là người tàn tật, già yếu, có nhược điểm về tâm thần mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao người đó cho người thân thích khác chăm nom; trường hợp không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao những người đó cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú chăm nom. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
– Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết việc chăm nom, chăm sóc người thân thích và bảo quản tài sản của họ. Việc thông báo được lập văn bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
Nhìn chung, nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ta có thể thấy một trong những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sựl à bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, theo đó, với các quy định như trên, rõ ràng, nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thuộc các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi nhưng vẫn tiến hành hoặc tham gia tố tụng đối với vụ việc, vụ án là không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; các hoạt động tố tụng mà họ đã tiến hành hoặc tham gia có thể được đánh giá là không vô tư, khách quan dẫn đến việc giải quyết vụ án có thể sẽ thiếu chính xác.
Do đó, để triển khai thực hiện có hiệu quả quy định trên, các ngành tư pháp Trung ương cần sớm có hướng dẫn để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện việc bắt buộc phải thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến đặc điểm nhân thân của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mỗi khi được phân công tiến hành tố tụng hoặc tham gia vào các quan hệ tố tụng hình sự trong một vụ việc, vụ án hình sự cụ thể.
Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm túc việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, nhất là những người có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự và đại diện của họ để họ thực hiện đầy đủ quyền của mình, nhằm giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật.
Đối với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Trong mỗi vụ án, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc CQĐT, VKS luôn được xác định ngay từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhận được tố giác, tin báo tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và tiếp tục được xác nhận trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ việc, vụ án đó trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Như vậy, để đảm bảo đúng quy định, trong từng trường hợp, CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án theo từng giai đoạn tố tụng phải có trách nhiệm xác định mối quan hệ của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người bị hại, đương sự hoặc bị can, bị cáo để họ chủ động từ chối hoặc thay đổi. Thực tiễn cho thấy, trong một vụ án, ở mỗi giai đoạn tố tụng, thường được phân công nhiều người tiến hành tố tụng khác nhau, các mối quan hệ của người tham gia tố tụng cũng nhiều nên việc xác minh là rất khó khăn.
Đối với người chứng kiến: Người tham gia tố tụng là người chứng kiến cũng thường được xác định ngay từ khi có tội phạm xảy ra và trong quá tình điều tra, truy tố. BLTTHS 2015 quy định, khi tiến hành các hoạt động tố tụng, có rất nhiều hoạt động bắt buộc phải có người chứng kiến như bắt, khám xét, khám nghiệm, thực nghiệm, thu giữ vật chứng... Vậy, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tìm hiểu, xác minh mối quan hệ của những người này với người bị buộc tội (nếu đã xác định được) trước khi mời họ làm người chứng kiến. Khó khăn trong trường hợp này là, đối với các vụ việc chưa xác định được người bị buộc tội thì việc lựa chọn người chứng kiến để mời họ tham gia phải thực hiện thế nào để tránh vi phạm.
Thực tế là, khi thực hiện một số hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thường mời đại diện gia đình của người bị buộc tội làm người chứng kiến (khám nghiệm hiện trường, từ thi, phương tiện...). Việc mời đại diện gia đình của người bị buộc tội làm người chứng kiến trong một số trường hợp sẽ đảm bảo tính khách quan hơn rất nhiều do quyền lợi của họ có liên quan đến nhau, tránh được việc khiếu nại (nếu có) đối với những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Đối với người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật:Hiện nay, việc giám định tài liệu, đồ vật và việc định giá tài sản là hoạt động thường xuyên, được thực hiện trong rất nhiều vụ việc, vụ án. Hoạt động giám định chỉ có từ cấp tỉnh trở lên và ở mỗi lĩnh vực cũng không có nhiều giám định viên để lựa chọn, trong khi số vụ việc cần giám định ngày càng tăng.
Đối với người định giá tài sản cũng vậy, mỗi huyện cũng chỉ có từ 1-2 cán bộ thuộc các cơ quan tài chính, kinh tế hạ tầng, tài nguyên môi trường có chuyên môn về giá, xây dựng, đất đai và được là thành viên của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự; đa số họ đều là người địa phương, có mối quan hệ họ hàng chằng chịt nên rất khó để xác định họ có là người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo hay không?.
Đối với người bào chữa: Đây là trường hợp dễ xác định hơn cả vì chỉ cần xác định mối quan của người bào chữa và những người đã và đang tiến hành tố tụng đối với vụ án đó, điều này có thể đã được thể hiện trong hồ sơ vụ án; mặt khác, mối quan hệ thân thích trong trường hợp này không nhiều và cũng ít xảy ra trên thực tế; bản thân người bào chữa cũng xác định rất rõ điều này để chủ động từ chối, chưa kể những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác cũng dễ nhận biết mối quan hệ đó để thực hiện quyền đề nghị thay đổi (nếu có).
Như vậy, việc xác định mối quan hệ thân thích của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để có căn cứ từ chối hoặc đề nghị thay đổi trong các trường hợp nêu trên là rất khó khăn và từ trước đến nay, vấn đề này cũng chưa được quan tâm triển khai thực hiện.
Nghiên cứu các quy định của BLTTHS 2015 thấy: Một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS là bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, theo đó, tại Điều 21 quy định người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến không được tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ; Điều 17 quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án; khoản 2 Điều 87 BLTTHS 2015 quy định “những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.
Với các quy định như trên, rõ ràng, nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thuộc các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi nhưng vẫn tiến hành hoặc tham gia tố tụng đối với vụ việc, vụ án là không đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; các hoạt động tố tụng mà họ đã tiến hành hoặc tham gia có thể được đánh giá là không vô tư, khách quan dẫn đến việc gải quyết vụ án có thể sẽ thiếu chính xác. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng không thể từ chối hoặc không bị đề nghị thay đổi hoàn toàn là do khách quan trong khi họ đã tham giavào các hoạt động tố tụng này rồi, trong một số trường hợp, hoạt động tố tụng đó không thể thực hiện lại được và các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải lấy đó làm căn cứ để giải quyết vụ án.
Để giải quyết các vướng mắc nêu trên, các ngành tư pháp Trung ương cần sớm có hướng dẫn để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện việc bắt buộc phải thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến đặc điểm nhân thân của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mỗi khi được phân công tiến hành tố tụng hoặc tham gia vào các quan hệ tố tụng hình sự trong một vụ việc, vụ án hình sự cụ thể. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm túc việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, nhất là những người có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự và đại diện của họ để họ thực hiện đầy đủ quyền của mình, nhằm giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật.
Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/nguoi-than-thich-la-gi-chung-minh-quan-he-than-tich-the-nao-a20131.html