Lời khai là gì? Quy định lấy lời khai trong tố tụng hình sự?

Thưa luật sư, khi bị triệu tập làm việc để lấy lời khai thì mục đích của cơ quan điều tra là gì ? Lời khai có phải là bằng chứng buộc tội không ? Quy định có phải bắt buộc đưa ra lời khai hay không ? Cảm ơn! (người hỏi: Lê Hồng Duy, tỉnh Hà Giang)

Luật sư tư vấn:

1. Lời khai là gì?

Lời khai là lời trình bày của bị can, bị cáo, người bị hại, người bị tạm giữ, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự mà người này đã thực hiện hoặc biết được theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án theo trình tự luật định nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan.

Lời khai của bị can, bị cáo là lời trình bày về những tình tiết của vụ án. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án.

Lời khai của người bị hại là lời trình bày về những tình tiết của vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Những tình tiết do người bị hại trình bày không được dùng làm chứng cứ, nếu họ không thể nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó.

Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ là lời trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị tình nghỉ thực hiện tội phạm.

Lời khai của người làm chứng là lời trình bày về những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị hại. Những tình tiết do người làm chứng trình bày sẽ không được dùng làm chứng cứ nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

2. Quy định về lấy lời khai cũa người tham gia tố tụng

Lấy lời khai người làm chứng là hoạt động điều ừa thu thập chứng cứ do người làm chứng đưa ra nhằm giải quyết vụ án.

Để việc lấy lời khai của người làm chứng đạt kết quả, điều tra viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhân thân người làm chứng, lập kế hoạch lấy lời khai. Trong kế hoạch phải dự kiến những việc cần làm rõ, phương pháp lấy lời khai, những tình huống có thể xảy ra và định thời gian, địa điểm lấy lời khai.

Về địa điểm lấy lời khai, cần chọn nơi thuận tiện cho việc khai báo. Thông thường, nơi làm việc của cơ quan điều tra là thuận tiện nhưng cũng có thể lấy lời khai tại nơi cư trú, nơi làm việc của người làm chứng.

Về thời gian lấy lời khai, không lấy lời khai vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lí do vào biên bản.

Trước khi lấy lời khai, điều tra viên phải làm giấy triệu tập và gửi cho người làm chứng. Giấy triệu tập ghi rõ họ tên, chỗ ở của người làm chứng, ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm có mặt, gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có lí do chính đáng.

Giấy triệu tập được giao trực tiếp cho người làm chứng hoặc thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú hoặc làm việc. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nhiệm vụ.

Trường hợp người làm chứng chưa đủ 18 tuổi thì giao giấy triệu tập cho cha, mẹ hoặc người đại diện khác của họ. Trong mọi trường hợp việc giao giấy triệu tập phải được kí nhận.

Cơ quan điều tra, viện kiểm sát đã triệu tập người làm chứng có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lí do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố. Đây là trường hợp tài liệu, chứng cứ của vụ án chưa đầy đủ hoặc còn mâu thuẫn, cần sự có mặt của người làm chứng để làm rõ các tình tiết mà họ biết được, để cơ quan điều tra, viện kiểm sát có điều kiện bổ sung thêm chứng cứ mới, củng cố các chứng cứ đã có. Nếu người làm chứng không có mặt thì việc điều ứa, truy tố sẽ rất khó khăn.

Quyết định dẫn giải người làm chứng phải ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải có mặt. Trước khi thi hành quyết định dẫn giải, người thi hành quyết định phải đọc, giải thích lí do và lập biên bản theo quy định chung. Không được bắt đầu dẫn giải người làm chứng vào ban đêm, không được dẫn giải người làm chứng già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế.

Điều tra viên tiến hành lấy lời khai của người làm chứng, nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng của từng người và không để họ tiếp xúc với nhau trong khi lấy lời khai. Nếu lấy lời khai của người làm chứng dưới 18 tuổi phải mời người đại diện của người đó tham dự.

Trước khi lấy lời khai, điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ. Việc này phải được ghi vào biên bản.

Trước khi hỏi về nội dung vụ án, điều tra viên phải xác minh mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị hại và những tình tiết khác về nhân thân người làm chứng, sau đó yêu câu người làm chứng kể hoặc viết lại trung thực những gì mà họ đã biết về vụ án rồi mới đặt câu hỏi yêu câu họ làm rõ thêm. Câu hỏi phải ngắn ngọn, dễ hiểu, cụ thể, không được đặt những câu hỏi có tính chất gợi ý. Mỗi làn lấy lời khai của người làm chứng đều phải lập biên bản, biên bản được lập như quy định đối với biên bản hỏi cung bị can. Trường hợp cần thiết, kiểm sát viên cũng có thể triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng.

Việc triệu tập lấy lời khai của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng được tiến hành như việc triệu tập, lấy lời khai của người làm chứng (Điều 188 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

3. Lấy lời khai người làm chứng ( Điều 185 - 187).

- Về triệu tập người làm chứng: Điểm mới đáng chú ý là, Giấy triệu tập phải ghi rõ mục đích và nội dung làm việc, thời gian làm việc; gặp ai và trách nhiệm việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; quy định rõ chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người làm chứng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc, học tập có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ.

- Về lấy lời khai người làm chứng: BLTTHS quy định trường hợp lấy lời khai của người làm chứng thì trước khi lấy lời khai, Điều tra viên, cán bộ điều tra phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định Điều 66 của Bộ luật này, phải hỏi về quan hệ của họ với bị can, bị hại; bổ sung quy định “trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai”.

4. Đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói ( Điều 189-191).

- Về đối chất (Điều 189): ràng buộc về trách nhiệm của Kiểm sát viên phải trực tiếp kiểm sát hoạt động đối chất trong điều tra các vụ án hình sự. BLTTHS lần này đã quy định cụ thể trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc kiểm sát hoạt động đối chất.

+ Khoản 1 Điều 189 quy định căn cứ để đối chất và kiểm sát việc đối chất là, trong trường hợp có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người “mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn” thì Điều tra viên tiến hành đối chất; trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nêu Kiêm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản đôi chât.

+ Khoản 2 Điều 189 bổ sung quy định: “Trước khi đối chất”, Điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng hoặc bị hại tham gia để cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối.

+ Khoản 3 Điều 189 bổ sung quy định về nội dung, cách thức đối chất cụ thể, rõ ràng hơn, đó là “trong quá trình đối chất, Điều tra viên có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan”.

+ Khoản 4 về hình thức lập biên bản, đã bổ sung thêm nội dung “Việc đối chất có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh”.

- Về nhận dạng (Điều 190): Cũng như hoạt động đối chất, BLTTHS quy định “trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát. Nêu Kiêm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng”; Khoản 2 Điều 190 quy định khi nhận dạng thì “người làm chứng, bị hại hoặc bị can, người chứng kiến” phải tham gia. Đây là quy định mới, bắt buộc mà Kiểm sát viên cần lưu ý khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra.

- Về nhận biết giọng nói (Điều 191): Đây là quy định mới của BLTTHS, cụ thể:

+ Khoản 1 Điều 191 quy định, khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nêu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói.

+ Khoản 2 Điều 191 quy định, khi nhận biết giọng nói, phải có sự tham gia của Giám định viên về âm thanh, người được yêu cầu nhận biết giọng nói, người được đưa ra để nhận biết giọng nói (trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm) và người chứng kiến.

+ Khoản 3 Điều 191 quy định, nếu người làm chứng, bị hại được yêu cầu nhận biết giọng nói thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc nay phải ghi vào biên bản.

+ Khoản 4 Điều 191 quy định, Điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói.

Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó.

+ Khoản 5 Điều 191 quy định, biên bản nhận biết giọng nói được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thưc hiên nhận biết giọng nói.

Như vậy, những quy định về hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, đối chất, nhận dạng và nhận biết giọng nói của BLTTHS năm 2015 đã được quy định cụ thể hơn nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác, bảo vệ quyền con người.

5. Thủ tục lấy lời khai người làm chứng quy định như thế nào?

Triệu tập người làm chứng: Việc triệu tập để lấy lời khai người làm chứng thực hiện theo quy định tại Điều 185 BLTTHS năm 2015, theo đó: Khi triệu tập người làm chứng đến lấy lời khai, KSV phải gửi giấy triệu tập. Nội dung giấy triệu tập phải ghi rõ họ tên, chỗ ở hoặc nơi làm việc, học tập của người làm chứng; giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm có mặt; mục đích và nội dung làm việc, thời gian làm việc; gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Việc giao giấy triệu tập được thực hiện như sau: (1) Giấy triệu tập được giao trực tiếp cho người làm chứng hoặc thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người làm chứng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc, học tập. Trong mọi trường hợp, việc giao giấy triệu tập phải được ký nhận. Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người làm chứng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc, học tập có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ; (2) Giấy triệu tập người làm chứng dưới 18 tuổi được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện khác của họ; (3) Việc giao giấy triệu tập người làm chứng theo ủy thác tư pháp của nước ngoài được thực hiện theo quy định tại khoản này và Luật Tương trợ tư pháp.

Tiến hành lấy lời khai: Kiểm sát viên có thể tiến hành lấy lời khai người làm chứng tại nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó. Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc, trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai. Trước khi lấy lời khai, KSV phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định tại Điều 66 của BLTTHS năm 2015. Việc này phải ghi vào biên bản, trước khi hỏi về nội dung vụ án, KSV phải hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng. Tiếp đó, KSV yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi.

Lập biên bản lấy lời khai: Theo quy định tại các điều 187, 178, 133 BLTTHS năm 2015 thì khi lấy lời khai người làm chứng, KSV phải lập biên bản theo mẫu thống nhất. Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm lấy lời khai, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung lấy lời khai, KSV lấy lời khai, người làm chứng và những người khác tham gia buổi lấy lời khai (người chứng kiến, Kiểm tra viên ghi biên bản), khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ. Sau khi lập biên bản, KSV phải đọc biên bản cho người làm chứng nghe hoặc để họ tự đọc, giải thích và đảm bảo cho họ thực hiện các quyền thêm, bớt, sửa chữa, tẩy xóa, nhận xét về biên bản. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa phải được xác nhận bằng chữ ký của họ. Trường hợp không chấp nhận những ý kiến của họ thì phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản lấy lời khai người làm chứng phải có chữ ký của KSV, người làm chứng, người khác (nếu có).

Trường hợp người làm chứng không ký vào biên bản thì KSV ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản; trường hợp người làm chứng không biết chữ thì KSV đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người làm chứng và chữ ký của người chứng kiến; trường hợp người làm chứng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì KSV đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.

Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc ghi âm, ghi hình lấy lời khai cũng phải thể hiện đầy đủ các nội dung: Ngày, giờ, tháng, năm thực hiện; họ tên những người tham gia, các câu hỏi và câu trả lời; xác nhận bằng giọng của người làm chứng đối với các điểm sửa chữa, thêm, bớt; cam đoan của người làm chứng về lời khai của mình...

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự, lấy lời khai. Hãy gọi ngay: 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể. Trân trọng./.

Link nội dung: https://luathoanhut.vn/loi-khai-la-gi-quy-dinh-lay-loi-khai-trong-to-tung-hinh-su-a20169.html