Phân tích quy định hợp pháp hóa mại dâm ở Việt Nam và hệ lụy phát sinh?

Hoạt động mại dâm ngày càng phổ biến ở nước ta đặt ra câu hỏi có nên hợp pháp hóa ở Việt Nam trong tình hình hiện nay hay không? Luật Hòa Nhựt phân tích một số khía cạnh pháp lý/tâm lý nếu việc hợp pháp hóa mại dâm được thông qua những vấn đề sau...

1. Đặt vấn đề về hợp pháp hóa mại dâm

Lưu ý rằng mại dâm có bản chất là người ta phải làm cái việc đó vì cần tiền, tiền là mục tiêu của người ta, vì cần tiền mà người ta phải miễn cưỡng làm tình với những người mua dâm mà người ta chẳng có ham muốn gì. Trạng thái này cũng giống như 1 người bị cưỡng dâm vậy, phải miễn cưỡng làm tình vì đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc chịu lệ thuộc về 1 mặt nào đó  với người muốn cưỡng dâm. Cho nên mại dâm là một tình trạng xâm phạm nhân phẩm gần giống như là cưỡng dâm vậy.  Xâm phạm nhân phẩm là hành vi hạ thấp nhân phẩm của người khác bằng việc xâm phạm tự do thân thể, tự do tình dục, kéo nhân phẩm người khác xuống thấp dưới mức bình thường, được thể hiện ở các tội hiếp dâm, cưỡng dâm, làm nhục người khác.

2. Hoạt động mại dâm ở Việt Nam được pháp luật hình sự quy định như thế nào? 

Hiện tại Việt Nam đang cấm mại dâm thì dịch vụ tình dục có thể coi như là "hàng cấm", vậy mà do mại dâm vẫn lén lút hoạt động cho nên giá trị sở hữu tình dục đối với một người lạ chỉ là từ một vài trăm nghìn. Cho nên có một điều chắc chắn 100% rằng, khi mại dâm được hợp pháp không còn là "hàng cấm" nữa, thì phụ nữ (là chủ yếu) sẽ bị giảm giá trị đi rất nhiều, rẻ đến mức còn không bằng một vài trăm nghìn cho một lần sở hữu tình dục một phụ nữ. Ở đây đáng chú ý là mại dâm đã tách tình dục của con người ra khỏi tình cảm và biến tình dục của con người thành một bản năng sinh lí đơn thuần như bản năng sinh lí của động vật, người ta làm tình với nhau không phải vì có tình cảm mà chỉ vì bản năng tình dục như loài vật. Điều này giải thích tại sao nhân loại vẫn coi mại dâm là nghề hạ thấp nhân phẩm của con người.

Các tội phạm về mại dâm ở Việt Nam được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là: Bộ luật Hình sự năm 2015)  bao gồm tội chứa mại dâm (Điều 327), tội môi giới mại dâm (Điều 328) và tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329). Trong những năm qua, các tội phạm về mại dâm có xu hướng tăng lên cả về số vụ và tính chất, mức độ nghiêm trọng, gây ra nhiều vấn đề phức tạp về kinh tế, xã hội, sức khỏe cộng đồng và gây bức xúc dư luận; thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân và hoạt động điều tra của cơ quan công an. Tội phạm về mại dâm đã xảy ra ở Việt Nam bao gồm tội phạm rõ và tội phạm ẩn.

Xét ở mức độ tổng quan, nếu như trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009, Tòa án nhân dân các cấp trong cả nước đã xét xử 4.711 vụ án về mại dâm với 6.125 người phạm tội, trung bình mỗi năm có khoảng 471 vụ với khoảng 612 người phạm tội, thì trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019, Tòa án nhân dân các cấp trong cả nước đã xét xử 6.724 vụ án về mại dâm với 8.574 người phạm tội, trung bình mỗi năm có khoảng 672 vụ với khoảng 857 người phạm tội. Có thể nói, số vụ phạm tội về mại dâm giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019 tăng ở mức đáng lo ngại so với 10 năm trước (giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009).

So với tổng số vụ phạm tội nói chung thì các tội phạm về mại dâm chiếm tỷ lệ khá lớn (11,8%). Các tội phạm về mại dâm được quy định tại 03 điều luật trong tổng số 313 điều luật quy định về các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 2015 chiếm tỉ lệ 0,96%, (3/313). Trong khi đó, cơ cấu của các tội này so với các tội phạm nói chung xảy ra trên thực tế lại lên tới 11,8% (gấp khoảng 12,3 lần so với tỉ lệ được quy định trong Bộ luật Hình sự). Đây là một thực trạng đáng báo động về các tội phạm về mại dâm trong 10 năm qua.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, thì dân số Việt Nam tính trung bình trong giai đoạn 2000 - 2009 là 81.875.800 người, còn theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, thì trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2000 - 2009, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử khoảng 471 vụ với khoảng 612 người phạm các tội phạm về mại dâm. Như vậy, trong giai đoạn 2000 - 2009, chỉ số tội phạm/100.000 dân là 0,57; còn chỉ số người phạm tội/100.000 dân là 0,74. Chỉ số tội phạm của các tội phạm về mại dâm giai đoạn 2010 - 2019 có sự gia tăng so với giai đoạn 2000 - 2009, lớn hơn giai đoạn 2000 - 2009 là 0,16 (tức là tăng 28%), còn chỉ số người phạm tội tương ứng lớn hơn 0,12 (tức là tăng 14,6%). Điều đó cho thấy, các tội phạm về mại dâm ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 xảy ra ngày càng nhiều và có mức độ phổ biến hơn giai đoạn 2000 - 2009.

=> Vậy đã cho thấy việc cho phép hành nghề mại dâm lại có bản chất không phải là vì mục đích nhân đạo như người ta nhầm tưởng. Bởi chẳng có cái nhân đạo nào lại vẫn ép người ta phải phục vụ tình dục (không phải vì ham muốn) để đổi lấy những đồng tiền kiếm sống qua ngày. Đó ngược lại, lại là hành động vô nhân đạo bắt người ta phải đem đánh đổi nhân quyền (quyền tự do tình dục) của mình để có được những đồng tiền kiếm sống.

Mặc dù có thể người bán dâm sẵn sàng đem bán nhân phẩm của mình lấy tiền mà không cảm thấy nuối tiếc. Nhưng đó là nhận thức lệch lạc tự hạ thấp quyền con người bất khả xâm phạm của mình, cũng giống như nhận thức lệch lạc tự làm hại mình của người nghiện ma túy vậy. 

3. Thực tiễn mại dâm ở Việt Nam 

Xét về thực tiễn, thì mại dâm dễ dẫn đến hành vi bạo lực tình dục trong khi thực hiện, bởi tâm lí của nhiều người mua dâm là đã "mất tiền mua mâm thì đâm mâm cho thủng". Vì vậy khi mại dâm được hợp pháp tức là hành vi mua dâm cũng được hợp pháp cho nên hành vi bạo dâm sẽ phát triển rất mạnh vì thừa cơ mại dâm đã được hợp pháp. Điều này sẽ dẫn đến người làm nghề mại dâm bị xâm phạm thân thể danh dự hơn rất nhiều, bị thực hiện tội phạm làm nhục vì phải chiều các “thượng đế” mua dâm, tức là bị xâm phạm nhân quyền ngày càng trầm trọng.

Nếu không cấm được thì gom vào quản lí thu thuế, thì điều này có nghĩa nhà nước tuy vẫn coi mại dâm là tiêu cực nhưng vì không ngăn cản được nên bất lực đành buông xuôi đồng lõa với tình trạng tiêu cực này.

4. Thực tiễn môi giới mại dâm qua zalo, facebook diễn ra như thế nào? 

Theo Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam: Theo Cục Phòng, chống tệ nạn (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), mại dâm ở Việt Nam đã tồn tại từ nhiều năm, hành vi bán dâm, mua dâm bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Qua nhiều năm, hoạt động mại dâm ngày càng tinh vi hơn.

Con số thống kê cho thấy số người bán dâm được các cơ quan chức năng thống kê qua xử phạt vi phạm hành chính, hỗ trợ xã hội, y tế... đầu năm 2017 là hơn 3.000 người.

Theo báo cáo thống kê của các địa phương trên toàn quốc, ước tính có khoảng 15.000 người bán dâm. Thế nhưng, dường như con số này chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Theo số liệu mới đây của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Việt Nam hiện có khoảng 100.000 người bán dâm, trong đó người bán dâm là nữ có khoảng 75.000 người.

Đối tượng và hình thức hoạt động mại dâm vẫn chủ yếu dưới dạng: gái gọi, du lịch tình dục, người nước ngoài bán dâm, mại dâm nam, môi giới mại dâm qua mạng internet (facebook, zalo...).

5. Văn bản pháp lý quy định về mại dâm

Hiện nay, Văn bản pháp lý cao nhất của Việt Nam điều chỉnh hoạt động phòng ngừa mại dâm là Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm được ban hành tháng 3/2003 và có hiệu lực từ tháng 7/2003, nhưng phải đến tháng 10/2004, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 178/2004/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều trong Pháp lệnh, tức là hơn một năm sau mới có văn bản hướng dẫn thực hiện pháp lệnh.

Cần khẳng định, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống pháp luật về phòng chống mại dâm, đặc biệt là Pháp lệnh phòng, chống mại dâm đã ban hành gần 15 năm đến nay đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với thực tiễn.

Đó là Pháp lệnh, phòng chống mại dâm vẫn là dạng luật khung quy định một số vấn đề trong phòng ngừa mại dâm. Và mặc dù xác định phòng ngừa là biện pháp trọng tâm nhưng các quy định về biện pháp phòng ngừa, trách nhiệm tổ chức các hoạt động phòng, ngừa... vẫn mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, chưa quy định các biện pháp, điều kiện, nguồn lực... dẫn đến việc triển khai ở các cấp còn gặp nhiều khó khăn.

Đặc biệt, theo đánh giá của cơ quan chức năng thì Pháp lệnh Phòng chống mại dâm có chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe, thậm chí thiếu tính khả thi khi áp dụng các biện pháp xử phạt.

Theo ông Cao Văn Thành, Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) nhận xét, chế tài xử phạt vi phạm hành chính với các hành vi vi phạm pháp luật phòng chống mại dâm cũng chưa công bằng, chưa có chính sách xử lý cụ thể đối với người mua dâm.

“Pháp lệnh cũng quy định cả người mua bán dâm đều bị xử lý phạt tiền, gửi thông báo về cơ quan hoặc địa phương nơi làm việc, cư trú nhưng thực tế việc này không khả thi do cả người mua và người bán không khai nhận chính xác nơi làm việc và cư trú dẫn đến khó khăn cho các cơ quan quản lý và biện pháp này dường như chưa phát huy hiệu quả,” ông Cao Văn Thành nhấn mạnh.

Ông Thành cũng cho rằng, mức phạt trong Pháp lệnh chưa thực sự đủ sức răn đe. Ông dẫn chứng, Luật xử lí vi phạm hành chính quy định người bán dâm chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100-300 nghìn đồng nên mức phạt này dường như là “phạt để tồn tại”. Hay việc xử phạt đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ có vi phạm chứa chấp hoặc tham gia vào hoạt động mại dâm cũng chưa thực sự thỏa đáng.

Ngoài ra, Pháp lệnh chưa đề cập đến các dịch vụ hỗ trợ xã hội cho người bán dâm hoàn lương cũng như các biện pháp phòng trước khi sa vào hoạt động mại dâm...

6. Có coi mại dâm là một nghề hay không ?

Theo Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, ở một số nước, mại dâm được coi là nghề, nhưng đa số các nước trên thế giới coi mại dâm là nghề vi phạm pháp luật, kể cả một số nước phát triển, có tư tưởng rất "thoáng" về quan hệ tình dục như Mỹ (chỉ có bang Nevada xem mại dâm là hợp pháp) và Việt Nam cũng nằm trong nhóm này.

Chính vì vậy “nên hay không nên” hợp pháp hóa mại dâm, là một trong những vấn đề luôn được dư luận quan tâm trong thời gian vừa qua.

Ông Cao Văn Thành cho biết, việc xây dựng Luật về mại dâm tiến hành dựa trên quan điểm thể chế hóa quan điểm mại dâm là bất hợp pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng chính sách, pháp luật về phòng, chống mại dâm sẽ đảm bảo tôn trọng quyền con người, chú trọng các giải pháp mang tính xã hội, nhằm giảm tác hại do hoạt động mại dâm gây ra đối với chính người mại dâm và xã hội, góp phần vào sự ổn định, phát triển của đất nước.

Phòng ngừa và giảm tác hại trong mại dâm là vấn đề đặt lên hàng đầu. Dự luật mới xây dựng khung pháp lý cho việc thực hiện các biện pháp can thiệt giảm hại trong phòng ngừa mại dâm, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới đối với người bán dâm.

Luật về mại dâm được xây dựng sẽ tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để huy động xã hội tham gia hỗ trợ, giúp đỡ hoà nhập cộng đồng cho người bán dâm.

Về vấn đề này, Tiến sỹ Trần Văn Đạt, Phó Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp) cho rằng, xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu đổi mới thì quan điểm xây dựng luật về mại dâm cần hướng đến dần công nhận mại dâm là một nghề, Nhà nước nên thừa nhận mại dâm và tổ chức quản lý hoat động mại dâm trong các khu riêng biệt như một số quốc gia lân cận và trên thế giới. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể quản lý cũng như hạn chế tối đa việc lây nhiễm các bệnh về tình dục.

Tuy vậy, ông cũng nhấn mạnh, đây là vấn đề cần có đánh giá, nghiên cứu một cách nghiêm túc, thấu đáo. Bởi lẽ, tệ nạn mại dâm là một vấn đề xã hội, để giải quyết cần phải có những biện pháp mang tính xã hội, phù hợp, trong một thời điểm nhất định. Mặt khác giải quyết vấn đề này cần xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều yếu tố như truyền thống văn hóa Việt Nam, phong tục tập quán và ý thức chấp hành pháp luật của người dân...

Theo ông, trên cơ sở tiếp cận xây dựng luật theo hướng dần công nhận mại dâm là một nghề thì dự thảo luật cần thể hiện được sự thay đổi trong chính sách của Nhà nước về phòng, chống mại dâm. Các chính sách này trước hết cần xác định việc quản lý mại dâm là trách nhiệm chính của Nhà nước, do vậy Nhà nước cần phải có chính sách đầu tư về kinh phí cho việc xây dựng các khu phố quản lý riêng biệt, dịch vụ y tế... để người hành nghề mại dâm có thể được hoạt động trong sự quản lý của nhà nước.

“Tuy nhiên, cũng cần thể hiện nhất quán quan điểm không khuyết khích phát triển hoạt động này, do đó luật vẫn cần hướng đến các biện pháp phòng, chống mại dâm,” ông Đạt nói.

Theo đó, ông đề xuất Luật cần có những quy định liên quan đến biện pháp phòng ngừa; cần đưa vào nội dung hỗ trợ phòng chống bạo lực giới, giảm hại và hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm...

Trong khi đó, nhiều chuyên gia lại cho rằng, trong điều kiện hiện nay chưa nên bàn đến việc hợp pháp hóa mại dâm hay coi đây là một nghề. Quan điểm phù hợp nhất, hợp lý và có ích nhất là không coi đây là tội hình sự.

Trả lời câu hỏi nên hay không nên hợp pháp hóa mại dâm quả thật rất khó, bởi đây là một vấn đề phức tạp vì liên quan đến phạm trù đạo đức và luật pháp, dù rằng là hai phạm trù riêng nhưng có liên quan mật thiết với nhau. Thực tế, sau nhiều lần tranh cãi thì câu hỏi trên vẫn chưa tìm được lời giải vì tính “nhạy cảm”.

Dù áp dụng biện pháp nào, chúng ta phải thừa nhận mại dâm là một vấn đề hiện hữu trong xã hội. Những người hoạt động mại dâm cũng là những con người và họ có quyền được sống, được bình đẳng đóng góp và hưởng thụ phúc lợi xã hội...  Bởi vậy, các giải pháp cho vấn đề mại dâm cần đạt đến mục tiêu tôn trọng quyền cơ bản của con người, vì giống nòi, vì một dân tộc phát triển khỏe mạnh và không có HIV/AIDS. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp tiếp cận giảm tác hại là giải pháp khả thi nhất và mang lại nhiều kết quả trong giai đoạn hiện nay.

Luôn lắng nghe và cùng chia sẻ cho khách hàng những kiến thức về tâm lý, pháp luật một cách nhiệt tình, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật Hòa Nhựt theo tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí: 1900.868644hoặc địa chỉ email[email protected] để nhận dược câu trả lời một cách nhanh chóng nhất.

Link nội dung: https://luathoanhut.vn/phan-tich-quy-dinh-hop-phap-hoa-mai-dam-o-viet-nam-va-he-luy-phat-sinh-a21270.html