- Di chúc là bản tuyên bố chính thức của cá nhân, thể hiện ý chí về việc chuyển giao tài sản sau khi họ qua đời.
- Định nghĩa này dựa trên quy định tại Điều 624 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, để di chúc có giá trị, người lập di chúc cần tỏ ra tỉnh táo, minh mẫn, sáng suốt, và không bị đe dọa, lừa dối hay bị cưỡng ép khi viết di chúc.
- Di chúc có thể có dạng văn bản do người để lại di sản tự viết hoặc có người làm chứng, cũng có thể được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để được công nhận là hợp pháp, di chúc phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tại Điều 630 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trong đó người lập di chúc phải tỏ ra minh bạch, sáng suốt khi viết di chúc.
- Nội dung của di chúc không được vi phạm các quy định của luật, và phải tuân thủ đạo đức xã hội.
- Điều 643, khoản 1 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Điều này có nghĩa là di chúc chỉ có hiệu lực khi người để lại di sản qua đời. Do đó, để thừa kế được di sản, người thừa kế phải được thông báo về nội dung của di chúc trước cho tất cả các bên liên quan.
Chủ thể công bố di chúc không cố định là một cá nhân cụ thể, và đối với mỗi tình huống, người công bố di chúc có thể là người khác nhau.
- Chủ thể của quy trình này là công chứng viên. Khi một người lập di chúc quyết định thực hiện việc lưu giữ di chúc bằng văn bản, quy trình công chứng di chúc được thực hiện để đảm bảo tính pháp lý và ngăn chặn bất kỳ thay đổi hay giả mạo nào về nội dung di chúc. Người lập di chúc cũng có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng đảm bảo việc lưu trữ di chúc, nhằm tránh tình trạng hư hại hoặc mất mát nội dung di chúc. Tổ chức hành nghề công chứng sẽ thực hiện việc lưu giữ di chúc theo hướng dẫn của người lập di chúc. Sau khi thời gian thừa kế đã mở, công chứng viên từ tổ chức hành nghề công chứng sẽ tiến hành công bố di chúc. Quy định này là bắt buộc và không phụ thuộc vào ý muốn của người lập di chúc hay của công chứng viên. Điều quan trọng là tổ chức hành nghề công chứng, khi nhận gửi giữ di chúc, phải thực hiện nghĩa vụ công bố di chúc khi người để lại di sản qua đời.
- Người lập di chúc có quyền chỉ định chủ thể thực hiện việc công bố di chúc trong những trường hợp khác nhau, từ di chúc được chứng thực bằng văn bản, di chúc văn bản không có chứng nhân, đến di chúc văn bản có chứng nhân và di chúc miệng. Hệ thống pháp luật đề cao nguyện vọng và quyền tự quyết của các cá nhân trong các mối quan hệ pháp lý dân sự. Quyết định này có thể được đưa ra dựa trên sự đồng thuận giữa người lập di chúc và người được chỉ định, hoặc chỉ dựa trên ý chí của người lập di chúc. Do đó, người được chỉ định để công bố di chúc theo ý muốn của người đã qua đời không có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện nếu họ muốn, họ có quyền từ chối nhiệm vụ này.
- Người thừa kế có thể đồng ý chỉ định một cá nhân để công bố di chúc khi người để lại di sản không xác định ai sẽ thực hiện công bố, hoặc khi người được chỉ định từ chối nhiệm vụ và di chúc không được lưu trữ tại một tổ chức hành nghề công chứng. Việc công bố di chúc là bước quan trọng để xác định cách chia di sản theo ý muốn của người đã mất, do đó, trong mọi tình huống, việc chỉ định một người để công bố di chúc là rất cần thiết.
Nếu di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài, quy định yêu cầu việc dịch ra tiếng Việt và phải được công chứng, chứng thực. Điều này là do quyền thừa kế phát sinh tại Việt Nam và những người thừa kế là người Việt Nam có thể không hiểu tiếng nước ngoài. Do đó, để đảm bảo di chúc có tính pháp lý và để tránh hiểu lầm, di chúc cần được chuyển ngữ ra tiếng Việt. Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tòa án Việt Nam, và vì vậy, mọi văn bản đều phải được dịch sang tiếng Việt.
Tuy nhiên, khi dịch sang tiếng Việt, có khả năng nội dung có thể bị hiểu lầm so với ý muốn của người để lại di sản. Để đảm bảo tính hợp pháp và chính xác của bản dịch, cũng như để phản ánh đúng ý muốn của người đã qua đời, quy định yêu cầu bản dịch phải được công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, đối với di chúc được lập dưới hình thức văn bản đã được công chứng, chứng thực, quy định này có thể được loại trừ. Điều này áp dụng cho cả di chúc bằng văn bản có hoặc không có người làm chứng, cũng như di chúc bằng miệng, nếu người làm chứng ghi chép lại nội dung bằng tiếng nước ngoài.
Sau khi quá trình mở thừa kế hoàn tất, người được giao trách nhiệm công bố di chúc sẽ xác định các bên liên quan như người thừa kế, người được di tặng, và sau đó chuyển bản di chúc tới những người này. Theo quy định pháp luật, việc công bố di chúc thông qua việc gửi bản sao được coi là phương pháp linh hoạt hơn, đặc biệt khi mọi người không chỉ có sự khác biệt về địa lý mà còn về thói quen và lịch trình cá nhân. Điều này khiến việc tổ chức một sự kiện tập trung để thông báo di chúc trở nên khó khăn.
Bên cạnh đó, việc bảo mật nội dung di chúc trước khi thừa kế được mở cũng là một yếu tố quan trọng. Vì lý do này, việc công bố di chúc thông qua việc gửi bản sao chỉ hướng tới việc thông báo cho những bên liên quan biết về nội dung của di chúc, bao gồm quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Do đó, việc sử dụng bản sao di chúc không chỉ tiện lợi cho người công bố mà còn phù hợp với tình hình cụ thể và tính chất của vấn đề.
- Hiện tại, pháp luật không có quy định rõ ràng về nơi công bố di chúc. Tuy nhiên, theo Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015, nơi mở thừa kế được xác định như sau: “Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản. Nếu không thể xác định nơi này, thì địa điểm mở thừa kế sẽ là nơi chứa toàn bộ di sản hoặc nơi lưu trữ phần lớn di sản.”
- Do đó, khi người lập di chúc qua đời, địa điểm mở thừa kế sẽ tùy thuộc vào nơi cư trú cuối cùng của họ. Trong trường hợp không biết chính xác nơi này, nơi mở thừa kế sẽ là nơi lưu trữ di sản hoặc nơi chứa phần lớn di sản của người đó.
- Dựa trên thông tin trên, di chúc sẽ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế, tức là khi người lập di chúc qua đời. Pháp luật chỉ đòi hỏi việc công bố di chúc trong quá trình này. Do đó, có hai trường hợp có thể xảy ra
+ Thời điểm mở thừa kế và thời điểm công bố di chúc trùng nhau.
+ Thời điểm mở thừa kế không giống với thời điểm công bố di chúc. Vì không có quy định cụ thể về thời điểm công bố, người thừa kế có thể tự thỏa thuận về địa điểm và thời điểm để công bố di chúc.
Khi công bố di chúc, người thực hiện việc này cần tuân theo các quy định của Bộ luật Dân sự như sau:
- Sau khi người lập di chúc qua đời, người nắm giữ di chúc theo chỉ định sẽ trao di chúc cho người thừa kế hoặc người có trách nhiệm công bố thừa kế. Việc này cần có ít nhất hai người làm chứng và hai bên cần ký tên.
- Người thực hiện công bố di chúc sẽ là người được chỉ định bởi người lập di chúc và người này có thể từ chối nếu muốn.
- Những người được tài sản thừa kế có thể thỏa thuận và lựa chọn người công bố di chúc nếu di chúc không có sẵn sự chỉ định hoặc người được chỉ định không muốn công bố.
- Sau khi mở thừa kế, người có trách nhiệm công bố di chúc cần phải gửi bản sao di chúc cho tất cả bên liên quan.
- Người thừa kế theo di chúc có quyền kiểm tra so sánh với bản gốc di chúc.
- Nếu di chúc được viết bằng tiếng nước ngoài, nó cần được dịch sang tiếng Việt và phải được công chứng hoặc chứng thực.
Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.868644 hoặc email: [email protected]. Xin trân trọng cảm ơn!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/ai-la-nguoi-se-cong-bo-di-chuc-hop-phap-theo-quy-dinh-a22006.html