Việc lựa chọn giới tính thai nhi là một vấn đề nổi lên trong thời gian gần đây và đã thu hút sự quan tâm của nhiều người. Tuy nhiên, liệu hành vi này có vi phạm pháp luật hay không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể tham khảo Nghị định 104/2003/NĐ-CP về việc nghiêm cấm các hành vi liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi. Theo quy định tại Điều 10 của Nghị định trên, có rõ ràng nêu ra nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Điều này bao gồm một loạt các hình thức tuyên truyền và phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi, bao gồm việc tổ chức nói chuyện, viết, dịch, nhân bản sách, báo, tài liệu, tranh, ảnh, ghi hình, ghi âm. Đồng thời, việc tàng trữ, lưu truyền tài liệu, phương tiện và các hình thức tuyên truyền, phổ biến khác về phương pháp tạo giới tính thai nhi cũng bị nghiêm cấm. Điều này cho thấy việc quảng bá và khuyến khích lựa chọn giới tính thai nhi là một hành vi bị cấm theo pháp luật.
Ngoài ra, quy định cũng nêu rõ việc sử dụng các biện pháp chẩn đoán để lựa chọn giới tính thai nhi cũng bị cấm. Các biện pháp này bao gồm xác định qua triệu chứng, bắt mạch, xét nghiệm máu, gen, nước ối, tế bào, siêu âm và nhiều phương pháp khác. Việc sử dụng các biện pháp này để quyết định giới tính thai nhi là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định. Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ rằng việc loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính bằng các biện pháp phá thai, cung cấp, sử dụng các loại hóa chất, thuốc và các biện pháp khác cũng là một hành vi bị cấm. Dựa trên quy định trên, có thể kết luận rằng việc lựa chọn giới tính thai nhi là một hành vi vi phạm pháp luật. Các hành vi liên quan đến việc tuyên truyền, phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi, sử dụng các biện pháp chẩn đoán lựa chọn giới tính thai nhi và loại bỏ thai nhi vì lý do này đều bị nghiêm cấm. Việc thực hiện các hành vi này có thể bị xem là vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Nghị định 117/2020/NĐ-CP, việc giúp người đang mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính sẽ bị xem là hành vi vi phạm hành chính và bị áp dụng các biện pháp xử phạt tương ứng. Cụ thể, theo điều 100 Nghị định trên:
- Nếu cơ sở y tế giúp người mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính mà không bị ép buộc, sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
- Nếu cơ sở y tế dụ dỗ, lôi kéo người mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.
- Nếu cơ sở y tế đe dọa, dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần để ép buộc người mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, sẽ bị phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
- Nếu cơ sở y tế dùng vũ lực để ép buộc người mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.
- Nếu cơ sở y tế cung cấp hóa chất, thuốc hoặc chỉ định, hướng dẫn sử dụng các biện pháp khác để loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính khi biết rõ nguyện vọng của người mang thai, sẽ bị phạt tiền từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
- Nếu cơ sở y tế tiến hành phá thai khi biết rõ người mang thai muốn loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Ngoài việc bị phạt tiền, cơ sở y tế vi phạm còn sẽ bị áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung như sau:
Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 03 tháng đến 06 tháng đối với hành vi vi phạm tại khoản 5 ở trên. Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm tại khoản 6 ở trên. Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược hoặc đình chỉ hoạt động kinh doanh đối với cơ sở có hoạt động dược không vì mục đích thương mại trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi vi phạm tại điểm a của khoản 5 ở trên.
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 103 Nghị định 117/2020/NĐ-CP về quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xử phạt các cơ sở y tế vi phạm hành chính. Quyền này bao gồm một loạt các biện pháp xử phạt nhằm xử lý các vi phạm trong lĩnh vực dân số, y tế dự phòng và phòng chống HIV/AIDS, bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh, dược phẩm, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. Cụ thể, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể áp dụng các biện pháp xử phạt sau đây: cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề có thời hạn, đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm hành chính. Ngoài ra, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh còn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Tuy nhiên, trong trường hợp cơ sở y tế giúp người đang mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, việc này không được xem là vi phạm hành chính trong lĩnh vực dân số, y tế dự phòng và phòng chống HIV/AIDS, bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh, dược phẩm, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không có quyền xử phạt cơ sở y tế này theo quy định tại Nghị định trên. Tuy Nghị định 117/2020/NĐ-CP không đề cập cụ thể về việc loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, nhưng vấn đề này có thể thuộc lĩnh vực quy định khác, chẳng hạn như pháp luật về phẫu thuật thẩm mỹ. Trong trường hợp này, việc xử lý cơ sở y tế sẽ tuân thủ theo quy định của lĩnh vực đó và không liên quan đến thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các biện pháp xử phạt cụ thể sẽ được áp dụng theo quy định của lĩnh vực đó.
Tóm lại, việc cơ sở y tế giúp người đang mang thai loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính không thuộc phạm vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quy định bởi Nghị định 117/2020/NĐ-CP. Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không có quyền xử phạt cơ sở y tế này theo quy định tại Nghị định trên. Tuy nhiên, nếu việc loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính không tuân thủ quy định của lĩnh vực khác, chẳng hạn như pháp luật về phẫu thuật thẩm mỹ, thì cơ sở y tế đó sẽ phải chịu trách nhiệm và xử lý theo quy định của lĩnh vực đó.
Điều này nhấn mạnh rằng việc xử phạt cơ sở y tế trong trường hợp loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính là một vấn đề phức tạp và phụ thuộc vào quy định của từng lĩnh vực. Việc bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của người phụ nữ mang thai cần được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính là một vấn đề nhạy cảm và đòi hỏi sự thảo luận và quyết định từ nhiều phía, bao gồm các chuyên gia y tế, nhà lập pháp và cộng đồng. Quyết định cuối cùng về việc cấm hay cho phép thực hiện thủ thuật này cần được đưa ra dựa trên nghiên cứu khoa học và các yếu tố xã hội, văn hóa, đạo đức và pháp luật. Trong tương lai, nếu có sự thay đổi trong quy định pháp luật liên quan đến việc loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể được cấp thêm thẩm quyền để xử phạt cơ sở y tế vi phạm trong lĩnh vực đó. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng và quyết định từ phía chính quyền và các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của quy định pháp luật. Trên cơ sở những quy định hiện hành, việc loại bỏ thai nhi vì lựa chọn giới tính là một vấn đề đòi hỏi sự quan tâm và giám sát từ phía chính quyền, các cơ quan liên quan và xã hội. Đồng thời, cần tạo điều kiện để nâng cao nhận thức về giới tính và xử lý vấn đề này một cách nhân văn và đúng pháp luật, nhằm bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của người phụ nữ mang thai và sự cân bằng giới tính trong xã hội.
Liên hệ hotline 1900.868644 hoặc email: [email protected] để được tư vấn
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/muc-phat-co-so-y-te-giup-loai-bo-thai-nhi-vi-lua-chon-gioi-tinh-a22554.html