Thế chấp bằng quyền đòi nợ có được không theo quy định?

Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho quý bạn đọc những quy định về Thế chấp bằng quyền đòi nợ có được không theo quy định?

1. Thế chấp bằng quyền đòi nợ có được không theo quy định?

Quyền đòi nợ không được định nghĩa tại Bộ Luật Dân Sự năm 2015. Thay vào đó, một cách chi tiết và cụ thể hơn, quyền này được quy định tại Nghị định 21/2021/NĐ-CP. Quyền đòi nợ được đề cập đến tại Điều 14 của Nghị định 21/2021/NĐ-CP về quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng. Điều này chính là cơ sở pháp lý để hiểu rõ về quyền đòi nợ trong ngữ cảnh pháp luật hiện hành. Một cách đơn giản, quyền đòi nợ có thể được hiểu là quyền sử dụng tài sản để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều này ánh xạ việc có một công cụ pháp lý để đòi lại số tiền nợ mà người khác đang nợ mình. Quyền đòi nợ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Khi một bên không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, bên có quyền đòi nợ có thể sử dụng quyền này để bảo vệ quyền lợi của mình. Đặc điểm quan trọng của quyền đòi nợ là nó liên quan trực tiếp đến tài sản. Bên có quyền đòi nợ có thể yêu cầu sử dụng tài sản của bên nợ để đảm bảo thanh toán nghĩa vụ.

Theo quy định tại Khoản 2 của Điều 450 trong Bộ luật Dân sự 2015 tập trung vào quyền đòi nợ trong giao dịch mua bán quyền tài sản, với những điểm sau:

​- Quyền đòi nợ được xem xét là một dạng của quyền tài sản. Theo quy định của Điều 105 Khoản 1 Bộ luật Dân sự, tài sản không chỉ giới hạn trong vật, tiền, giấy tờ có giá mà còn bao gồm các quyền trị giá được bằng tiền.

​- Trong trường hợp quyền tài sản là quyền đòi nợ, bên bán có nghĩa là bên chuyển nhượng quyền tài sản cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ.

​- Nếu đến hạn thanh toán mà người mắc nợ không thực hiện, bên bán phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán. Điều này tương tự như việc bên bán chịu trách nhiệm nếu có vấn đề phát sinh liên quan đến quyền đòi nợ.

​- Quyền tài sản, theo Bộ luật Dân sự, được định nghĩa là quyền trị giá được bằng tiền. Điều này áp dụng cho mọi dạng quyền tài sản, kể cả quyền đòi nợ.

​- Đối tượng của quyền tài sản có thể là quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, và các quyền tài sản khác. Điều này cho thấy tính đa dạng và rộng lớn của khái niệm quyền tài sản.

​- Quyền tài sản, bao gồm cả quyền đòi nợ, được xem xét theo giá trị của nó, được định bằng tiền. Điều này thể hiện sự chú trọng vào khía cạnh giá trị kinh tế của các quyền tài sản.

Quyền đòi nợ, trước đây không được định nghĩa trong Bộ Luật Dân Sự năm 2015, hiện nay đã được đề cập đến trong Nghị định 21/2021/NĐ-CP. Cụ thể, Nghị định này đặt quyền đòi nợ tại Điều 14 về quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng. Đơn giản, quyền đòi nợ là quyền tài sản được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ngoài ra, quyền đòi nợ được coi là một trong các quyền tài sản, theo định nghĩa của Điều 115 Bộ Luật Dân Sự 2015. Điều này mở ra khả năng thế chấp bằng quyền đòi nợ theo Điều 317 của cùng Bộ luật. Bên thế chấp có thể sử dụng quyền đòi nợ của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mà không cần chuyển quyền đòi nợ đó cho bên nhận thế chấp.

=> Bên có quyền trong hợp đồng có thể sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Hơn nữa, theo hướng dẫn tại Điều 33 của Nghị định 21, thế chấp bằng quyền đòi nợ không yêu cầu sự đồng ý của người có nghĩa vụ, nhưng bên nhận thế chấp phải thông báo trước khi thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tổng cộng, quyền đòi nợ và thế chấp bằng quyền đòi nợ mở ra một hệ thống linh hoạt và hiệu quả trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.

 

2. Trường hợp dùng quyền đòi nợ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì việc thay đổi bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm

Theo hướng dẫn của Điều 28 trong Nghị định 21/2021/NĐ-CP, quy định về thay đổi bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm trong trường hợp quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán có biện pháp bảo đảm được bán, chuyển nhượng hoặc chuyển giao khác về quyền sở hữu, cụ thể như sau:

- Bên mua, bên nhận chuyển nhượng hoặc bên nhận chuyển giao khác về quyền sở hữu có thể trở thành bên nhận bảo đảm trong trường hợp sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

​- Bên nhận bảo đảm mới phải có trách nhiệm thông báo cho bên bảo đảm về việc thay đổi bên nhận bảo đảm. Thông báo này cần được thực hiện trước khi nghĩa vụ được bảo đảm được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

​- Trong trường hợp pháp nhân được tổ chức lại, bên kế thừa có thể trở thành bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm hoặc người có nghĩa vụ được bảo đảm.

​- Việc bán, chuyển nhượng hoặc chuyển giao khác về quyền, nghĩa vụ không yêu cầu xác lập lại hợp đồng bảo đảm. Điều này giúp đơn giản hóa quy trình chuyển nhượng và giữ nguyên hiệu lực của biện pháp bảo đảm liên quan đến quyền yêu cầu.

Hướng dẫn này mang lại tính minh bạch và hiệu quả cho việc thực hiện bảo đảm trong trường hợp chuyển nhượng quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm. Quy định cụ thể giúp bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cả bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ.

 

3. Quy định xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ 

Theo Điều 7 của Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN, việc xử lý tài sản thế chấp, cụ thể là quyền đòi nợ, được hướng dẫn như sau:

Trước thời điểm xử lý quyền đòi nợ, bên nhận thế chấp có trách nhiệm gửi thông báo xử lý quyền đòi nợ cho bên có nghĩa vụ trả nợ ít nhất là bảy (07) ngày làm việc. Thông báo này phải được kèm theo một bản sao có xác nhận của tổ chức hành nghề công chứng đối với hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ đã được công chứng, hoặc bản chính hợp đồng có chữ ký, con dấu (nếu có) của các bên, hoặc Giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền đòi nợ do cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm cấp.

Trong khoảng bảy (07) ngày làm việc từ ngày nhận được thông báo xử lý quyền đòi nợ, bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán khoản nợ cho bên nhận thế chấp theo hướng dẫn sau:

- Nếu thời điểm thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng có căn cứ phát sinh quyền đòi nợ của bên thế chấp xảy ra trước thời điểm xử lý quyền đòi nợ theo hợp đồng thế chấp, bên có nghĩa vụ trả nợ chuyển khoản tiền vào tài khoản do bên có nghĩa vụ trả nợ mở tại Ngân hàng theo chỉ định của bên nhận thế chấp. Bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu Ngân hàng phong tỏa tài khoản và chỉ được yêu cầu giải tỏa khi đến thời điểm xử lý tài sản thế chấp. Bên có nghĩa vụ trả nợ không được quyền yêu cầu giải tỏa và thực hiện giao dịch với số tiền này sau khi nộp tiền vào tài khoản.

- Nếu thời điểm thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng có căn cứ phát sinh quyền đòi nợ của bên thế chấp xảy ra sau thời điểm xử lý quyền đòi nợ theo hợp đồng thế chấp, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán khoản nợ đó tại thời điểm nghĩa vụ trả nợ đến hạn.

Bên nhận thế chấp không được yêu cầu bên thế chấp thanh toán khi nghĩa vụ trả nợ chưa đến hạn, trừ khi có thỏa thuận khác.

Nếu quý khách hàng đang gặp phải bất kỳ vấn đề pháp lý nào hoặc có câu hỏi cần được giải đáp, xin vui lòng không ngần ngại liên hệ với chúng tôi thông qua Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline 1900.868644. Đội ngũ chuyên gia của chúng tôi sẵn sàng lắng nghe và cung cấp sự tư vấn chuyên nghiệp để giúp quý khách giải quyết mọi vấn đề một cách hiệu quả và đúng luật. Ngoài ra, quý khách hàng cũng có thể gửi yêu cầu chi tiết qua email: [email protected] để được hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc một cách nhanh chóng. Chúng tôi cam kết đáp ứng mọi yêu cầu của quý khách hàng một cách chu đáo và chất lượng.

Link nội dung: https://luathoanhut.vn/the-chap-bang-quyen-doi-no-co-duoc-khong-theo-quy-dinh-a23514.html