Theo quy định của Điều 66 Luật Giáo dục 2019 tại khoản 1, nhiệm vụ chính của nhà giáo là thực hiện công tác giảng dạy và giáo dục tại các cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với những cơ sở giáo dục được quy định tại điểm c khoản 1 của Điều 65 trong cùng Luật.
Nhà giáo được phân loại thành hai nhóm chính dựa trên trình độ giảng dạy và giáo dục. Những người giảng dạy ở cấp mầm non, phổ thông và các cơ sở giáo dục khác, trình độ giảng dạy từ sơ cấp đến trung cấp sẽ được gọi là giáo viên. Trong khi đó, những người giảng dạy ở trình độ cao đẳng trở lên sẽ là giảng viên.
Do đó, theo quy định của pháp luật, giảng viên được định nghĩa là nhà giáo có nhiệm vụ giảng dạy từ trình độ cao đẳng trở lên.
Dựa vào Điều 72 của Luật Giáo dục 2019, các yêu cầu về trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo được quy định như sau:
- Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo được xác định như sau:
+ Giáo viên mầm non cần có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm trở lên;
+ Giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông cần có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên trở lên. Trong trường hợp môn học thiếu giáo viên có bằng cử nhân ngành đào tạo giáo viên, họ phải có bằng cử nhân chuyên ngành tương ứng và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm;
+ Nhà giáo giảng dạy trình độ đại học cần có bằng thạc sĩ, trong khi những người giảng dạy, hướng dẫn luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cần có bằng tiến sĩ;
+ Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo giảng dạy trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ tuân theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.
- Chính phủ sẽ quy định lộ trình thực hiện việc nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, và trung học cơ sở theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 của Điều này. Trong trường hợp không đáp ứng được quy định tại khoản 1, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, cùng với Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sẽ quy định việc sử dụng nhà giáo trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của họ.
Đồng thời, theo sửa đổi của khoản 29 Điều 1 Luật Giáo dục đại học năm 2018, Điều 54 Luật Giáo dục đại học 2012 đã có những điều chỉnh quan trọng về quy định về giảng viên như sau:
- Giảng viên tại cơ sở giáo dục đại học được yêu cầu phải có nhân thân rõ ràng, phẩm chất và đạo đức tốt, đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ, và trình độ phải đáp ứng theo quy định của Luật, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
- Chức danh giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư. Quy định về bổ nhiệm chức danh giảng viên được thực hiện theo các quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động, cũng như theo vị trí việc làm và nhu cầu sử dụng của cơ sở giáo dục đại học.
- Trình độ tối thiểu của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là thạc sĩ (trừ chức danh trợ giảng); đối với chức danh giảng viên giảng dạy trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, trình độ tương ứng là tiến sĩ. Cơ sở giáo dục đại học ưu tiên tuyển dụng giáo viên có trình độ tiến sĩ; đồng thời, thúc đẩy và ưu tiên phát triển đội ngũ giáo sư đầu ngành để nâng cao chất lượng các ngành đào tạo.
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ quy định tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm chức danh giảng viên theo thẩm quyền; đồng thời, quy định tỷ lệ giảng viên cơ hữu tối thiểu của cơ sở giáo dục đại học và tiêu chuẩn giảng viên thực hành, giảng viên chuyên ngành đào tạo đặc thù.
Như vậy, để trở thành giảng viên đại học, đối với tất cả các chức danh trừ trợ giảng, yêu cầu tối thiểu là bằng thạc sĩ, và các điều kiện khác cũng phải đáp ứng theo quy định của pháp luật. Tiêu chuẩn cho giảng viên tại trường cao đẳng sẽ tuân theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Dựa theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, được điều chỉnh bởi khoản 1 Điều 1 của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi 2019, các quy định được xác định như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí làm việc trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp trung ương, cấp tỉnh, và cấp huyện. Đồng thời, đối với cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, công chức không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hoặc công nhân quốc phòng; cũng như trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân, công chức không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, hoặc công nhân công an, và nằm trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Dựa trên quy định của Điều 2 trong Luật Viên chức 2010, viên chức được định nghĩa như sau: Viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo vị trí công việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hình thức hợp đồng làm việc và nhận lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập, theo quy định của pháp luật.
Dựa trên quy định của Điều 9 trong Luật Viên chức 2010, đơn vị sự nghiệp công lập được mô tả như sau:
- Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội quản lý. Đơn vị này có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ công và phục vụ cho nhiệm vụ quản lý của nhà nước.
- Đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành hai loại:
+ Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn trong việc thực hiện nhiệm vụ, quản lý tài chính, tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ);
+ Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn trong việc thực hiện nhiệm vụ, quản lý tài chính, tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ).
Dựa trên những quy định trên, có thể nhận thấy rằng, nếu giảng viên đại học hoạt động tại đơn vị sự nghiệp công lập dưới hình thức hợp đồng làm việc, thì sẽ được coi là viên chức. Tuy nhiên, ngoài giảng viên ký hợp đồng làm việc với đơn vị sự nghiệp công lập, còn tồn tại giảng viên thực hiện hợp đồng lao động với đơn vị này (thường được gọi là giảng viên hợp đồng).
Nếu giảng viên đại học ký hợp đồng lao động với đơn vị sự nghiệp công lập, thì mối quan hệ giữa hai bên sẽ phải tuân theo quy định của Bộ Luật Lao động 2019, và trong trường hợp này, giảng viên đại học làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập không được xem là viên chức mà là người lao động. Trong mối quan hệ lao động này, có hai bên chính:
- Giáo viên, được xem là người lao động.
- Đơn vị sự nghiệp công lập, đóng vai trò là người sử dụng lao động.
Như vậy, có thể thấy rằng quan hệ lao động này được quy định và điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động, không nằm trong phạm vi quy định của Luật Viên chức. Do đó, giáo viên hợp đồng được xem là người lao động, không phải viên chức.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Hòa Nhựt về vấn đề: Giảng viên đại học là công chức hay viên chức theo quy định? Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline 1900.868644 hoặc email: [email protected]. Xin trân trọng cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm theo dõi bài viết!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/giang-vien-dai-hoc-la-cong-chuc-hay-vien-chuc-theo-quy-dinh-a23938.html