Theo Điều khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, quy định rằng người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân hoặc tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. Điều này thể hiện quyền lợi cơ bản của công dân hoặc các tổ chức trước pháp luật, bao gồm quyền được nghe và tự bào chữa trước pháp luật. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi và công bằng cho cá nhân và tổ chức trong quá trình xử lý hành chính.
Theo quy định tại khoản 3 của Điều 19 trong Thông tư 32/2023/TT-BGTVT, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm soát giao thông, cảnh sát giao thông có thẩm quyền dừng phương tiện giao thông để kiểm soát và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Khi cảnh sát giao thông phát hiện hoặc thu thập được thông tin, hình ảnh về hành vi vi phạm của người lái và phương tiện thông qua các thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, họ cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin đó cho người vi phạm. Theo quy định, người vi phạm có quyền yêu cầu xem thông tin, hình ảnh và kết quả thu thập về hành vi vi phạm tại chỗ kiểm soát của Tổ Cảnh sát giao thông. Nếu không có thông tin, hình ảnh hoặc kết quả tại chỗ kiểm soát, cảnh sát giao thông phải hướng dẫn người vi phạm để họ có thể xem khi đến trụ sở đơn vị xử lý vi phạm. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của người vi phạm và đảm bảo sự công bằng trong quá trình xử lý hành chính.
Do đó, khi cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực giao thông, có thể yêu cầu cảnh sát giao thông chứng minh liệu có hành vi vi phạm hay không. Quyền này giúp đảm bảo rằng quyết định xử phạt được dựa trên thông tin và bằng chứng đầy đủ, từ đó tăng tính công bằng và minh bạch trong quá trình xử lý vi phạm giao thông. Nếu không có chứng minh đủ về vi phạm, người bị phạt có thể yêu cầu xem xét lại quyết định và bảo vệ quyền lợi của mình.
Khoản 1 của Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã được sửa đổi bởi khoản 32 của Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020, quy định về quyền của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, trong đó cảnh sát giao thông được sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ như sau: Cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Đây là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực như giao thông, an toàn, bảo vệ môi trường, phòng cháy chữa cháy, cứu nạn cứu hộ, phòng chống ma túy, phòng chống tác hại của rượu bia và các lĩnh vực khác do Chính phủ quy định. Cá nhân, tổ chức được giao quản lý phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ: Các cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm quản lý và sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát, giám sát và xử lý vi phạm hành chính. Các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ này được sử dụng để phát hiện vi phạm hành chính liên quan đến trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng chống ma túy, phòng chống tác hại của rượu, bia và các lĩnh vực khác do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quyền này giúp cho các cơ quan chức năng có đủ phương tiện và thiết bị để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát, giám sát và xử lý vi phạm hành chính một cách hiệu quả và chính xác. Bên cạnh đó, khoản 5 của Điều 11 Thông tư 65/2020/NĐ-CP quy định về phương tiện thông tin liên lạc của lực lượng cảnh sát giao thông, bao gồm: bộ đàm, điện thoại, máy fax, máy tính lưu trữ, truyền nhận dữ liệu, máy in.
Theo đó, cảnh sát giao thông được phép sử dụng điện thoại để phục vụ cho việc phát hiện vi phạm hành chính. Tuy nhiên, các phương tiện thông tin cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ của cảnh sát giao thông để phát hiện vi phạm hành chính phải đảm bảo các yêu cầu và điều kiện được quy định tại khoản 2 của Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã được sửa đổi bởi khoản 32 của Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020, cụ thể:
- Tôn trọng quyền tự do, danh dự, nhân phẩm, bí mật đời tư của công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân và tổ chức: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cảnh sát giao thông phải đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền lợi và danh dự của công dân, không được xâm phạm quyền riêng tư hay các quyền hợp pháp khác của cá nhân và tổ chức.
- Tuân thủ đúng quy trình, quy tắc về sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ: Cảnh sát giao thông phải tuân thủ các quy định, quy trình và quy tắc về việc sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong việc phát hiện vi phạm hành chính.
- Kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ phải được ghi nhận bằng văn bản và chỉ được sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính: Các thông tin, dữ liệu và kết quả thu thập được phải được ghi nhận đầy đủ, rõ ràng và chỉ được sử dụng trong quá trình xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đã được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm theo quy định của pháp luật: Cảnh sát giao thông phải đảm bảo rằng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng đều đáp ứng đúng tiêu chuẩn và đã được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm đúng quy định trước khi sử dụng và duy trì các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong suốt quá trình sử dụng.
Khoản 3 của Điều 7Thông tư 06/2017/TT-BGTVT (đã hết hiệu lực chưa có văn bản thay thế) quy định về các yêu cầu đối với thiết bị ghi hình như sau:
- Thiết bị ghi hình khi chụp hình ảnh thực tế: Phải bảo đảm rằng hình ảnh được chụp phải hiển thị ngày, tháng, năm, giờ, phút, giây và địa điểm chụp hình. Điều này giúp xác định chính xác thời điểm và địa điểm xảy ra vi phạm hành chính.
- Thiết bị ghi hình ảnh động (camera): Khi ghi, thu hình ảnh thực tế hoặc clip hình ảnh, thiết bị phải bảo đảm có hiển thị ngày, tháng, năm, giờ, phút, giây, và địa điểm ghi, thu hình ảnh, clip. Điều này cũng giúp xác định rõ ràng thời gian và địa điểm xảy ra sự kiện.
- Trường hợp thiết bị ghi hình không có chức năng xác định địa điểm: Trong trường hợp này, trong phiếu xác nhận kết quả của thiết bị ghi hình, phải ghi rõ địa điểm ghi hình. Điều này giúp đảm bảo rằng thông tin về địa điểm xảy ra vi phạm cũng được ghi nhận và sử dụng trong quá trình xử lý vi phạm hành chính.
Những yêu cầu này giúp bảo đảm tính chính xác và minh bạch trong việc sử dụng thiết bị ghi hình để phát hiện và xử lý vi phạm hành chính, đồng thời tăng cường tính công bằng và đảm bảo quyền lợi của cá nhân và tổ chức được giữ trong quá trình xử lý vi phạm.
Theo quy định trên, cảnh sát giao thông khi sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nghiệp vụ. Bên cạnh đó, các phương tiện này phải được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm trong suốt quá trình sử dụng. Điện thoại di động cá nhân của cảnh sát giao thông không thể đảm bảo các tiêu chí trên, do đó, việc cảnh sát giao thông sử dụng điện thoại di động để phục vụ cho vấn đề phạt xử phạt vi phạm là không đúng với quy định của pháp luật.
Nếu có bất cứ vấn đề pháp lý nào cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ tới bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số điện thoại: 1900.868644 hoặc gửi yêu cầu qua địa chỉ email: [email protected]. Trân trọng!
Link nội dung: https://luathoanhut.vn/dieu-kien-doi-voi-canh-sat-giao-thong-dung-thiet-bi-ghi-hinh-hanh-vi-vi-pham-a24485.html