1. Nội dung vụ án
1.1. Các đương sự tham gia
Vào ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, đã diễn ra phiên xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2020/TLPT-DS, được mở vào ngày 17 tháng 3 năm 2020, liên quan đến vấn đề đòi tài sản theo Bản án số 20/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Khánh Hòa, mà đã có sự kháng cáo từ bà Lê Thị Ch.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử được ban hành theo số 15/2020/QĐ-PT ngày 23 tháng 4 năm 2020 và sau đó, quyết định hoãn phiên tòa được đưa ra theo số 20/2020/QĐ-PT ngày 15 tháng 5 năm 2020.
Các bên liên quan tham gia phiên xử bao gồm:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ch, sinh năm 1947, địa chỉ tại xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lê Thị Ch: Luật sư Cao Y, thuộc Công ty Luật N, Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa.
Bị đơn: Ông Đặng Ngọc C, sinh năm 1968, địa chỉ tại xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đặng Ngọc C: Luật sư Nguyễn Đình Th, thuộc Văn phòng Luật sư Nguyễn Đình Th, Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bao gồm:
- Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1942, địa chỉ xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa.
- Ông Nguyễn Phi Th1, sinh năm 1966, địa chỉ xã D, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.
- Ông Nguyễn Xuân L, sinh năm 1972, địa chỉ xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa.
- Ông Nguyễn Xuân P, sinh năm 1976, địa chỉ xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa.
- Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1984, địa chỉ xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa (vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1985, địa chỉ thôn Gò Sắn, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Người kháng cáo:
- Nguyên đơn bà Lê Thị Ch
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn M, ông Nguyễn Phi Th1, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Xuân P, ông Nguyễn Xuân T và bà Nguyễn Thị H.
1.2. Tóm tắt nội dung vụ án
Nguyên đơn trình bày:
Năm 1997, bà Lê Thị Ch cùng gia đình đã cho ông Đặng Ngọc C thuê một thửa đất diện tích 2.720 m2 tại thôn Vĩnh P, xã T, huyện K, tỉnh Khánh Hòa để có tiền xây nhà, thời hạn thuê từ 1997 đến 2015. Hai bên đã lập giấy thuê đất, nhưng ông C giữ bản gốc. Giấy sang nhượng đất ngày 25/01/1999 được cho là giả mạo và không được bà Ch ký. Sau khi hết hạn thuê đất vào năm 2015, ông C không trả lại đất và tiếp tục trồng cây xoài trên diện tích đất. Bà Ch đã báo cáo vụ việc này cho Ủy ban nhân dân xã T và nay yêu cầu Tòa án buộc ông Đặng Ngọc C phải trả lại thửa đất số 158, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.184 m2 cho gia đình bà.
Bị đơn trình bày:
Bị đơn ông Đặng Ngọc C cho biết rằng vào năm 1999, ông đã nhận sang nhượng một thửa đất diện tích 2.700 m2 tại thôn Vĩnh P, xã T, huyện K từ ông Nguyễn Văn M và bà Lê Thị Ch với giá 05 chỉ vàng 96%. Hai bên đã lập giấy sang nhượng đất vào ngày 25/01/1999, với thời hạn được ghi là cho đến khi "xã bàn", tức là khi Nhà nước thu hồi toàn bộ đất để chia lại. Ông C đã sử dụng đất ổn định từ khi nhận nhượng, thậm chí đã phá các ụ mối, san phẳng mặt bằng, rào lại đất bằng hàng rào trụ bê tông kẽm gai và trồng cây lâu năm (xoài, chuối, mãng cầu). Gia đình bà Ch và ông M ở cùng thôn Vĩnh P không có ý kiến phản đối. Ông C đã nhiều lần yêu cầu bà Ch và ông M thực hiện thủ tục sang tên thửa đất nhưng họ từ chối. Ông C đề nghị Tòa án bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ch và công nhận thửa đất số 158, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.184 m2 thuộc quyền sử dụng của ông.
Ý kiến của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn M đã thống nhất với ý kiến và yêu cầu của vợ ông, là bà Lê Thị Ch.
Các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Xuân P, ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Phi Th1 và bà Nguyễn Thị H, cho biết rằng vào năm 1997, cha mẹ của họ là ông Nguyễn Văn M và bà Lê Thị Ch đã cho ông Đặng Ngọc C thuê một thửa đất trồng mì hàng năm, là thửa đất số 60, tờ bản đồ số 18, diện tích 2.720m2 tại thôn Vĩnh P, xã T, huyện L. Thời hạn thuê đất là từ năm 1997 đến năm 2015. Tuy nhiên, vào cuối năm 2015, ông C không trả lại đất mà thậm chí có ý định chiếm đoạt đất lâu dài và đã trồng cây lâu năm trên đất này. Các ông, bà đều yêu cầu Tòa án giải quyết và buộc ông Đặng Ngọc C phải trả lại đất cho gia đình họ.
Bản án sơ thẩm số 20/2019/DS-ST:
Bản án số 20/2019/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện L có các quyết định sau:
- Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Thị Ch về việc buộc ông Đặng Ngọc C trả lại thửa đất số 158, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.184 m2 tại thôn Vĩnh P, xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 25/01/1999 giữa bà Lê Thị Ch và ông Đặng Ngọc C được công nhận là có hiệu lực. Ông Đặng Ngọc C có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước để thực hiện thủ tục sang tên thửa đất.
- Về chi phí giám định chữ ký, định giá:
Mỗi người, bà Lê Thị Ch và ông Đặng Ngọc C, phải chịu 1.912.500 đồng chi phí giám định chữ ký. Ông Đặng Ngọc C buộc phải trả 1.912.500 đồng cho bà Lê Thị Ch. Bà Lê Thị Ch phải chịu chi phí định giá, đo vẽ là 3.825.000 đồng.
- Về án phí: Bà Lê Thị Ch phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Yêu cầu về kháng cáo:
Ngày 13/11/2019, bà Lê Thị Ch và những người liên quan bao gồm ông Nguyễn Văn M, ông Nguyễn Phi Th1, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Xuân P, ông Nguyễn Xuân T, và bà Nguyễn Thị H đã nộp đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả lại đất cho gia đình họ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, những người kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng giấy sang nhượng đất giữa bà Lê Thị Ch và ông Đặng Ngọc C là trái pháp luật, vi phạm qui định về hình thức và nội dung, do đó cần tuyên vô hiệu và buộc ông C trả lại đất cho gia đình bà Ch.
Bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đều đề nghị Tòa án giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã phát biểu rằng Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông đề xuất không chấp nhận kháng cáo từ phía nguyên đơn và các bên liên quan với nội dung giải quyết vụ án. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng bản án sơ thẩm đã không xử lý tạm ứng án phí mà bà Lê Thị Ch đã nộp, và không miễn án phí cho bà Ch, một người cao tuổi thuộc đối tượng được miễn án phí. Do đó, ông đề xuất sửa bản án sơ thẩm về mặt án phí, miễn án phí sơ thẩm cho bà Ch và xử lý tiền tạm ứng án phí sơ thẩm mà bà Ch đã nộp.
2. Nhận định của Tòa án về nội dung
- Trong vụ án tranh chấp tài sản, bà Lê Thị Ch đưa ra yêu cầu bắt bị đơn ông Đặng Ngọc C phải trả lại quyền sử dụng đất, đó là thửa đất số 158, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.184 m2, tọa lạc tại xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa. Quyền sử dụng đất này được chứng nhận bằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06477, cấp ngày 14/6/2017, thay thế cho thửa đất số 18, tờ bản đồ số 60, diện tích 2.720m2, ban đầu được cấp cho hộ ông Nguyễn Văn M và bà Lê Thị Ch. Đất này được Nhà nước giao cho gia đình theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ
- Cả hai bên liên quan đều thừa nhận rằng thửa đất số 18, tờ bản đồ số 60 và thửa đất số 158, tờ bản đồ số 43 hiện nay tại xã T, huyện L là một. Diện tích đất đã thay đổi do đo đạc lại của cơ quan Nhà nước, trong đó ranh giới đất không thay đổi. Cả hai đều yêu cầu giải quyết theo diện tích đã được cấp đổi sổ và đo vẽ thực tế là 3.184m2. Uỷ ban nhân dân xã T cũng xác nhận sự thay đổi diện tích là kết quả của đo vẽ, trong khi ranh giới đất không có sự thay đổi và không có tranh chấp với những chủ sử dụng đất liền kề. Do đó, theo khoản 5 Điều 98 của Luật Đất đai năm 2013, Tòa án đã chấp nhận giải quyết theo diện tích đất là 3.184m2.
- Bà Lê Thị Ch, nguyên đơn trong vụ án, khẳng định rằng bà chỉ cho ông Đặng Ngọc C thuê đất với thời hạn từ 1997 đến 2015, với giá là 05 chỉ vàng 96%, và cả hai bên đã có giấy làm đối với việc thuê đất này. Tuy nhiên, bà Ch không thể cung cấp giấy thuê đất, trong khi ông C lại không thừa nhận thông tin này. Ông Nguyễn Văn M và các con của bà Ch, bao gồm ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Xuân P, ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Phi Th1 và bà Nguyễn Thị H, đều cho rằng bà Ch và ông M chỉ cho ông C thuê đất, nhưng không thể cung cấp bằng chứng hỗ trợ về việc cho thuê đất này.
- Bà Lê Thị Ch phủ nhận việc đã ký giấy sang nhượng đất mì đề ngày 25/01/1999, trong khi bị đơn ông Đặng Ngọc C cung cấp bằng chứng là Giấy sang nhượng đất mì này, cho biết bà Ch đã chuyển nhượng đất cho ông C. Mặc dù bà Ch không thừa nhận chữ ký trên giấy, một kết luận giám định của Công an tỉnh Khánh Hòa, ngày 07/11/2017, xác nhận rằng chữ ký trên giấy là của bà Ch.
- Trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án, bà Lê Thị Ch đã yêu cầu giám định lại chữ ký được cho là của bà trên Giấy sang nhượng đất mì đề ngày 25/01/1999, với lý do bà không nhận những chữ ký này. Tuy nhiên, Tòa án đã từ chối yêu cầu này vì thiếu căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Ch tiếp tục yêu cầu giám định lại chữ ký mà không cung cấp thêm bằng cứ mới. Theo quy định của Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 29 Luật Giám định tư pháp, Hội đồng xét xử đã không chấp nhận yêu cầu của bà Ch.
- Ngoài Giấy sang nhượng đất mì đề ngày 25/01/1999 do bà Ch ký tên, trong biên bản làm việc với các bên liên quan về tranh chấp đất đai ngày 21/01/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Tiên, bà Ch đã thừa nhận đã chuyển nhượng đất cho ông Đặng Ngọc C với giá 05 chỉ vàng 96%. Điều này chứng minh rằng việc bà Ch sang nhượng đất cho ông C là có thật.
- Các thành viên khác trong gia đình bà Lê Thị Ch, bao gồm chồng ông Nguyễn Văn M và các con ông M, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Xuân P, ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Phi Th1 và bà Nguyễn Thị H, tại thời điểm Nhà nước cấp đất năm 1998, không ký vào giấy sang nhượng đất. Tuy nhiên, họ sống chung với bà Ch tại xã T và không có ý kiến phản đối việc ông Đặng Ngọc C trồng cây lâu năm trên đất, cũng như việc sử dụng 05 chỉ vàng từ sang nhượng đất vào việc xây dựng nhà ở chung. Tòa án sơ thẩm xác định rằng những người này đã đồng ý với việc bà Ch sang nhượng đất cho ông C.
- Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị Ch và ông Đặng Ngọc C không được công chứng hoặc chứng thực bởi cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên, bà Ch đã nhận đủ tiền từ quá trình sang nhượng đất. Sau khi nhận đất, ông C đã sử dụng đất ổn định và liên tục, thực hiện các công việc như trồng trụ bê tông, lắp đặt rào kẽm gai xung quanh toàn bộ thửa đất, và làm phẳng đất bằng cách san ủi các ụ mối. Việc sử dụng đất của ông C được xác nhận phù hợp với quy hoạch và không vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã xác định rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ch và ông C có hiệu lực, và không chấp nhận yêu cầu đòi lại tài sản của bà Ch là đúng.
- Tuy bản án sơ thẩm đã đưa ra quyết định có căn cứ và tuân thủ đúng theo quy định pháp luật, nhưng có một điểm cần sửa đổi. Bản án sơ thẩm đã bỏ qua việc xử lý tạm ứng án phí mà bà Lê Thị Ch đã nộp. Trong phiên tòa phúc thẩm, bà Ch giải thích rằng do thiếu hiểu biết về pháp luật, nên tại phiên tòa sơ thẩm, bà không yêu cầu miễn án phí. Tuy nhiên, bây giờ bà yêu cầu Tòa án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về vấn đề án phí, miễn án phí sơ thẩm cho bà Ch và xử lý tiền tạm ứng án phí sơ thẩm mà bà Ch đã nộp.
Đối với án phí phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định sửa bản án sơ thẩm về vấn đề án phí, do đó, những người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về chi phí giám định và định giá:
- Chi phí giám định chữ ký là 3.825.000 đồng. Vì chữ ký trong giấy sang nhượng đất là do bà Lê Thị Ch ký nên nguyên đơn bà Lê Thị Ch phải chịu 50% chi phí, tức là 1.912.500 đồng. Ông Đặng Ngọc C, bị đơn, cũng phải chịu 50% chi phí này, tức là 1.912.500 đồng. Nguyên đơn đã tạm ứng toàn bộ chi phí này, nên bị đơn có trách nhiệm trả lại cho nguyên đơn 1.912.500 đồng.
- Chi phí đo vẽ, định giá là 2.943.000 đồng. Yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận, nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí định giá, không có sự thay đổi.
3. Quyết định của Tòa án
Tòa án quyết định không chấp nhận kháng cáo của người kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm về vấn đề án phí như sau:
Về yêu cầu buộc Ông Đặng Ngọc C trả đất:
- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Thị Ch về việc buộc ông Đặng Ngọc C trả lại thửa đất số 158, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.184 m2, tọa lạc tại thôn Vĩnh P, xã T, huyện L, tỉnh Khánh Hòa.
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký ngày 25/01/1999 giữa bà Lê Thị Ch và ông Đặng Ngọc C là có hiệu lực.
- Ông Đặng Ngọc C có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục sang tên thửa đất theo trích đo địa chính thửa đất kèm theo bản án.
Về chi phí giám định chữ ký và định giá:
- Bà Lê Thị Ch và ông Đặng Ngọc C phải chịu 50% chi phí giám định chữ ký, tức là 1.912.500 đồng mỗi người.
- Bà Ch đã nộp đủ chi phí này. Bà Lê Thị Ch phải chịu 3.825.000 đồng chi phí định giá và đo vẽ, đã nộp đủ.
Về án phí:
- Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Lê Thị Ch. Trả lại cho bà Lê Thị Ch 300.000 đồng tạm ứng án phí sơ thẩm và 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm.
- Trả lại cho ông Nguyễn Văn M, ông Nguyễn Phi Th1, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Xuân P, ông Nguyễn Xuân T và bà Nguyễn Thị H mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Liên hệ qua 1900.868644 hoặc luathoanhut.vn@gmail.com