1. Có được tạm giữ người có hành vi bạo lực gia đình hay không?
Theo quy định của Điều 16 trong Nghị định 142/2021/NĐ-CP, việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được thực hiện trong các trường hợp cụ thể sau đây:
- Ngăn chặn và đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc tạo thương tích cho người khác.
- Ngăn chặn và đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
- Thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dưỡng bắt buộc hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Đối với người có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy.
Do đó, những người có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022, sẽ thuộc diện đối tượng tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Tóm lại, trong trường hợp hành vi đánh đập không nằm trong các điều kiện quy định tại Điều 16, thì không sẽ không bị tạm giữ theo thủ tục hành chính. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cũng quy định biện pháp cấm tiếp xúc nhằm ngăn chặn người có hành vi bạo lực gia đình gần người bị bạo lực hoặc sử dụng phương tiện, công cụ để thực hiện hành vi bạo lực gia đình.
2. Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Dựa theo quy định của khoản 3 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, đã được sửa đổi bởi điểm b khoản 61 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020, về thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính, các điều sau đây được quy định:
- Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính không vượt quá 12 giờ; tuy nhiên, trong các trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giữ có thể được kéo dài, nhưng không quá 24 giờ, tính từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm. Trong những tình huống tạm giữ người vi phạm hành chính tại khu vực biên giới, vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hoặc hải đảo, thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm người vi phạm được áp giải đến nơi tạm giữ.
- Đối với trường hợp tạm giữ nhằm xác định tình trạng nghiện ma túy, theo quy định tại điểm đ khoản 4 Điều này, thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn, nhưng không vượt quá 05 ngày, tính từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm.
- Đối với người bị tạm giữ trên tàu bay hoặc tàu biển, cần chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền khi tàu bay đến sân bay hoặc tàu biển cập cảng.
Ngoài ra, theo khoản 2 và khoản 3 Điều 18 của Nghị định 142/2021/NĐ-CP, thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính phải được ghi rõ trong quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền. Đối với trường hợp tạm giữ ở khu vực biên giới, vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo, thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm người vi phạm được áp giải đến nơi tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Tổng cộng, trong tất cả các trường hợp, thời hạn tạm giữ người không vượt quá 12 giờ, có thể kéo dài đến 24 giờ khi cần thiết.
3. Còn bất cập tồn tại trong quy định về biện pháp cấm tiếp xúc
Về biện pháp cấm tiếp xúc, theo quy định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và của Tòa án nhân dân, cần nhấn mạnh rằng đây là biện pháp mà nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng, kế thừa từ luật hiện hành. Tuy nhiên, cũng có thể đưa ra một số điểm bất cập của biện pháp này.
Thứ nhất, điều kiện áp dụng biện pháp chỉ phù hợp trong trường hợp người bị bạo lực gia đình là người lớn, người đã thành niên, nhưng lại không phù hợp trong trường hợp trẻ em bị chính cha mẹ bạo hành. Điều kiện áp dụng bao gồm đề nghị của người bị bạo lực gia đình hoặc đại diện theo pháp luật, đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Chủ tịch xã chỉ có thể ra quyết định một cách tự chủ nếu hành vi bạo lực gia đình đe dọa đến tính mạng của trẻ em.
Đối với trường hợp trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, với người gây bạo lực chính là cha mẹ, là người đại diện theo pháp luật của trẻ, các quy định trên trở nên không khả thi. Đại biểu đề xuất rằng cần phải có sự dẫn chiếu đến Luật Trẻ em và các nghị định hướng dẫn thi hành để đảm bảo tính toàn diện hơn. Ông nhấn mạnh rằng Luật Trẻ em đã quy định về biện pháp cách ly trẻ em khỏi môi trường, đối tượng đe dọa hoặc có hành vi bạo lực với các quy định rất cụ thể. Do đó, ông đề nghị rằng luật mới cần có quy định dẫn chiếu đến Luật Trẻ em để đảm bảo rằng biện pháp được thực hiện một cách toàn diện và hiệu quả.
Thứ hai, luật đã quy định các điều kiện cấm tiếp xúc tùy thuộc vào đề nghị của người bị bạo lực gia đình. Trong trường hợp hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe, điều kiện cấm tiếp xúc được kích động. Ngược lại, nếu Chủ tịch Ủy ban nhân dân tự mình ra quyết định, thì điều kiện cấm tiếp xúc chỉ áp dụng khi hành vi bạo lực gia đình đe dọa đến tính mạng.
Luật cũng xác định rõ hành vi bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế. Tuy nhiên, có một số điểm trong các quy định nêu trên vẫn còn mơ hồ, có thể tạo ra sự nhầm lẫn trong việc áp dụng. Ví dụ, khả năng gây tổn hại về sức khỏe có thể được hiểu khác biệt so với gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục. Hoặc nếu gây tổn hại về tinh thần, tình dục có thể coi là tổn hại về sức khỏe hay không. Điều này có thể dẫn đến hiểu lầm rằng chỉ khi gây tổn hại về sức khỏe, người bị bạo lực gia đình mới có thể đề nghị cấm tiếp xúc, trong khi gây tổn hại về tính mạng thì chỉ có Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã mới quyết định. Do đó, đề xuất rằng cần điều chỉnh lại ngôn ngữ để tránh hiểu lầm và làm rõ hơn quy định áp dụng của luật.
Thứ ba, quy định về cấm tiếp xúc của tòa án chỉ liên quan đến các trường hợp tòa án nhân dân đang xử lý hoặc giải quyết vụ án dân sự liên quan đến người bị bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình. Có thể đánh giá rằng quy định này còn hạn chế, không bao quát hết mọi tình huống. Chẳng hạn, trong vụ án ly hôn giữa vợ chồng, nếu người bị bạo lực gia đình là trẻ em, thì theo quy định hiện tại, tòa án không có thẩm quyền ra quyết định cấm tiếp xúc. Do đó, đề xuất mở rộng và xem xét lại phạm vi của quy định để áp dụng cho mọi trường hợp.
Mặc dù đã có quy định về biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình, tuy nhiên các biện pháp ngăn chặn hành chính và hình sự đã được quy định trong các luật khác, như luật xử lý vi phạm hành chính và luật tố tụng hình sự. Vì vậy, cần sắp xếp lại nội dung của Điều 22, khoản 2 cần được tích hợp vào trong khoản 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022 để tạo sự logic và rõ ràng hơn. Cũng cần đề xuất sắp xếp lại thứ tự các biện pháp để làm cho nó hợp lý hơn, với biện pháp ngăn chặn được ưu tiên áp dụng đối với người có hành vi bạo lực gia đình, còn biện pháp hỗ trợ áp dụng đối với người bị bạo lực gia đình.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Hòa Nhựt về vấn đề có được tạm giữ người có hành vi bạo lực gia đình hay không? Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.868644 hoặc email: luathoanhut.vn@gmail.com. Xin trân trọng cảm ơn!