Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế

Mời các bạn theo dõi Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế của Luật Hòa Nhựt cung cấp qua bài viết dưới đây.

1. Khái quát án lệ số 41/2021/AL

 Được Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23 tháng 02 năm 2021 và được công bố theo quyết định số 42/QĐ-CA ngày 12 tháng 03 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ

Bản án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT ngày 29 tháng 7 năm 2010 của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án "Tranh chấp chia di sản thừa kế và chia tài sản chung" tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Trọng P1 với bị đơn là anh Trần Trọng P2 và anh Trần Trọng P3, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm 6 người.

 Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 3, 4 phần "Nhận định của tòa án"

Khái quát nội dung của án lệ

- Tình huống án lệ:

Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn nhưng sau đó họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người sống chung với nhau như vợ chồng với người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt

Quy định của pháp luật liên quan đề án lệ:

- Điều 676 bộ luật dân sự 2005 (tương ứng với điều 651 bộ luật dân sự 2015)

- Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày mùng 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình năm 2000

- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Từ khóa của án lệ:

"Hôn nhân thực tế", "Chấm dứt hôn nhân thực tế".

2. Nội dung vụ án được nhắc đến trong án lệ

Theo đơn khởi kiện ngày mùng 8 tháng 10 năm 2004 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án chị Trần Thị Trọng P1 do bà Trần Thị S đại diện theo ủy quyền viết đơn trình bày.

Năm 1969 ông Trần Thế T1 chung sống với bà Tô Thị T2 sinh được hai người con là Trần Trọng P2 và Trần Trong P3, do mâu thuẫn vợ chồng nên bà T2 đã bỏ đi vào Vũng Tàu sinh sống và kết hôn với người khác. Năm 1985 ông T1 chung sống với bà Trần Thị S có con chung là Trần Thị Trọng P1.

 Năm 1987 Ủy ban nhân dân thị xã K đã cấp cho ông T1 diện tích 8.500 mét vuông đất vườn tại phường Q (nay là phường D), thị xã K. Sau khi được cấp đất, ông T1 và bà S vẫn đang ở nhà cha mẹ bà S nên chỉ đến để trồng cây trên phần đất đã được cấp. Năm 1993, ông T1 có đơn xin "giao đất xây dựng nhà ở" có nội dung gia đình ông có 5 người hiện đang ở nhờ nhà cha mẹ vợ và đề nghị giải quyết xin lô đất để làm nhà ở. Sau đó ông T1 và bà S đã làm nhà ở trên phần đất này. Năm 2000 ông T1 và bà S lại có đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà ở thể hiện nhà làm ở trên diện tích đất nêu trên là của ông và bà S. Ngày 26 tháng 3 năm 2003 ông T1 chết không để lại di chúc toàn bộ tài sản cho anh P2 và anh P3 quản lý sử dụng.

Ngày  8 tháng 10 năm 2004 chị P1 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của ông T1 để lại. Tại bản tự khai ngày 15 tháng 04 năm 2009 chị P rút yêu cầu chia di sản đối với heo, gà, ba ba và tủ thờ và đề nghị tòa xem xét đo đạc lại diện tích đất không yêu cầu định giá lại.

 Bà Trần Thị S cũng có đơn yêu cầu chia tài sản chung giữa bà và ông Trần Thế T1. Theo bà S trình bày trong thời gian chung sống với ông T1 bà và ông T1 có tạo lập được khối tài sản chung cùng một ngôi nhà cấp 4 trên diện tích 36 m² nằm trên tổng diện tích đất 8.500 m² (nay còn lại 6403 m²), 1 xe máy Trung Quốc, 2 máy bơm nước, 450 kg cà ri, 5 con heo, 70 con gà, 22 con thỏ, 1 hồ cá, 1 tủ trà. Bà đề nghị bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bà. Tại bản tự khai ngày 15 tháng 04 năm 2009 bà S yêu cầu tòa án giải quyết chia tài sản chung giữa bà và ông T1, đồng thời chia di sản thừa kế của ông T1 cho bà, chị P1, anh P2, anh P3 đối với diện tích đất còn lại kể cả diện tích đất mà anh P3 và anh P2 đã bán cho ông L và ông C.

 Bị đơn là anh Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3 Trình bày:

Tài sản trên do ông T1 và hai anh tạo lập được, bà S không có công sức gì nên không đồng ý chia cho bà S. Về yêu cầu chia tài sản thừa kế cho chị P1 thì anh P2 và anh P3 yêu cầu giám định ADN để xác định hàng thừa kế theo quy định của pháp luật.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

-  Bà Tô Thị T2 trình bày: bà và ông T1 kết hôn năm 1969 có giấy đăng ký nhưng bị mất bà. Bà ông T1 có hai con chung là anh P2 và anh P3. Năm 1982 bà bỏ vào Vũng Tàu và sinh sống với ông Trần Sinh D và có ba con chung. Năm 1985 ông T1 và bà S chung sống với nhau đến năm 2003 thì ông T1 chết, hai người cũng có một số tài sản chung. Nếu được hưởng thừa kế di sản của ông T1 thì phần của bà được chia sẻ cho anh P2 và anh P3.

 - Ông Chu Đình M trình bày: khi ông T1 còn sống có vay của ông 8 triệu đồng. Anh P2, anh P3 đã trả được hết cho ông. Nay ông không có yêu cầu gì đề nghị tòa án giải quyết theo quy định.

- Bà Lâm Thị H trình bày: năm 2002 bà S có vay của bà 17 triệu đồng để sửa nhà và cưới vợ cho anh T3. Sau đó bà S trả được 8 triệu đồng. Nay bà S còn nợ 9 triệu đồng. Đề nghị tòa án buộc bà S trả lại số tiền 9 triệu đồng

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Lê Văn L khai: năm 1999 anh P2 và anh P3 có nhượng cho anh một lô đất rộng 5 m dài 36 m diện tích 180 m², anh đã trả đủ tiền và nhận đất sử dụng nay đề nghị tiếp tục được sử dụng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 4/2009/DSST ngày 29 tháng 10 năm 2009 tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum tuyên xử:

Căn cứ khoản 5 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận đơn khởi kiện chia thừa kế của chị Trần Thị Trọng P1 và đơn xin chia tài sản chung và chia di sản thừa kế của bà Trần Thị S đề ngày mùng 8 tháng 10 năm 2004 được bổ sung ngày 15 tháng 04 năm 2009.

 Căn cứ các Điều 634, 636, 637, 640, 678, 679, 686, khoản 2 Điều 688, Điều 738, Điều 739, Điều 743 và Điều 238 Bộ luật dân sự năm 1995, điểm b khoản 1 Điều 127 Luật đất đai. Xử:

 Bà Trần Thị Sđược chia lô đất có diện tích 3.201,5 mét vuông trị giá 155 triệu 500 nghìn đồng ở 506/25 P, tổ 1, phường D, thành phố K (rừ diện tích mương nước) có tứ cận như sau:

Phía Đông giáp hẻm P rộng 37,66 m

Phía Tây giáp lô cao su rộng 37,66 m

Phía Nam giáp đất anh K dài 85 m

Phía bắc giáp đất nhà bà S dài 85 m

Và một lô đất có diện tích đất là 800 37 m² đã trừ mương nước có tứ cận:

Phía Đông giáp hẹp P rộng 9,41 m

Phía tây giáp lô cao su rộng 9,41 m

Phía Nam giáp đất bà S dài 85 m

Phía bắc giáp nhà anh P3 dài 85 m tại số 506/ 25 P, thành phố K trị giá 38. 875.000₫.

Bà S có trách nhiệm cho trả cho chị Lâm Thị H số tiền 9 triệu đồng

Anh Trần Trọng P3 được chia một lô đất ở số 506/25 P, phường D, thành phố K diện tích 800,37 m² (đã trừ diện tích nước) trị giá 38.875.000₫ có tứ cận

 Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41 m

Phía Tây giáp rô cao su rộng 9,41 m

Phía Nam giáp đất bà S dài 85 m

Phía Bắc giáp đất chị P1 dài 85 m

Anh P3 được sở hữu một căn nhà gồm một nhà chính, một nhà phụ tổng diện tích là 54,64 m2 trị giá 9.027.00022₫, 1 xe máy Trung Quốc trị giá 5 triệu đồng, 2 máy bơm nước trị giá 800.000₫ và 450 kg cà ri trị giá 5 triệu đồng. Tổng cộng là 19.827.022₫.

Anh P3 trả cho bà  S 8.828.628₫.

Chị Trần Thị Trọng P1 được chia một lô đất có diện tích 800,37m2 (đã trừ diện tích mương nước) trị giá 38.875.000đ tại 506/25 p, phường D, thành phố K có tứ cận:

Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41m

Phía Tây giáp lô cao su rộng 9,41m

Phía Nam giáp đấy nhà anh P3 dài 85m

Phía Bắc giáp đất anh P2 dài 85m

Chị P1 phải trả cho anh P3 4.959.372đ, trả cho bà S 1.875.000đ

Anh Trần Trọng P2 được chia một lô đất diện tích 800,37 m² (đã trừ diện tích mương nước) trị giá 38.875.000 tại 506/25 P, tổ 1, phường D, thành phố K có tứ cận

Phía Đông giáp hẻm B rộng 9,41 m

Phía tây giáp lô cao su rộng 9,41 m

Phía Nam giáp Đất chị P1 dài 85 m

Phía bắc giáp đất ông T dài 85 m

Anh P2 có trách nhiệm trả cho bà S 1.875.000, trả cho anh P3 4.959.372đ

Bà Trần Thị S, anh Trần Trọng P2, anh Trần Trọng P3 và chị Trần Thị Trọng P1 một có quyền đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  theo quy định

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo

Ngày 11 tháng 11 năm 2009 bị đơn là các anh Trần Trọng B2, Trần Trọng P3 kháng cáo đề nghị bác đơn khởi kiện của nguyên đơn

Ngày 12 tháng 11 năm 2009 người có quyền nghĩa vụ liên quan đảm là bà Tô Thị T2 kháng cáo đề nghị bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, lời trình bày của các bên đương sự và kết quả tranh luận tại phiên toà.

3. Nhận định của tòa án

  1. Bà Tô Thị T2 chung sống với ông Trần Thế T1 từ năm 1969, có hai con chung là Trần Trọng P2 và Trần Trong P, đến năm 1982 bà T2 vào Bà Rịa Vũng Tàu chung sống với ông Trần Sinh D từ đó đến nay đã có ba con chung.
  2. Từ năm 1985 ông Trần Thế T1 và bà Trần Thị S chung sống với nhau có con chung là Trần Thị Trọng P1 cho đến năm 2003 thì ông T1 chết.
  3.  Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 và T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
  4.  Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có một con chung, tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.
  5. Theo yêu cầu của anh P2, anh P3 đề nghị giám định ADN để xác định chị P1 có phải con ông T1 không: vấn đề này đã được trưng cầu giám định nhưng hiện nay khoa học nước ta chưa tách được nhân ADN từ hài cốt ông T1 lên không giám định được, tuy nhiên trước đây các anh Trần Trọng P2, Trần Trọng P3 và bà Tô Thị T2 cũng đã có lời khai thừa nhận chị Trần Thị Trọng P1 là con ruột của ông Trần Thế T1(BL 52, 53, 56) là phù hợp với lời khai của chị P1 và bà S và các chứng cứ khác như giấy khai sinh, lời khai các nhân chứng. Vì vậy án sơ thẩm chấp nhận chị P1 được hưởng thừa kế di sản của ông T1 là có căn cứ.
  6.  Xét năm 1987 ông Trần Thế T1 được Ủy ban nhân dân thị xã K cấp lô đất vườn tại phường Q, (nay là phường D), thành phố K có diện tích 8.500 m², hiện nay trên lô đất đã có một căn nhà cấp 4 do ông T1 và bà S xây dựng và một số tài sản chung khác.
  7.  Xét trong quá trình sử dụng lô đất nói trên theo lời khai của các đương sự cũng như quan xác minh thấy ông T1 và các con của ông đã cắt bán cho một số người, đồng thời trên đất còn có công trình kênh mương thủy lợi đi qua nên diện tích đất không còn như cũ. Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ vào ngày 12 tháng 05 năm 2005 có sơ đồ kèm theo thì diện tích đất gia đình ông T1 đang quản lý là 5610 m² và 540 mét vuông anh P2 bán cho anh L, ông C thì tổng diện tích là 6.150 mét vuông từ đó cho đến ngày xử sơ thẩm ngày 29 tháng 10 năm 2009 cấp sơ thẩm không tiến hành mời địa chính đo đạc lại để xác định chính xác diện tích thực tế của lô đất đang tranh chấp hiện tại còn bao nhiêu mét vuông, năm 2009 bà S cũng đã có đơn yêu cầu đo đạc lại đất nhưng cấp sơ thẩm không tiến hành đo lại mà vội chấp nhận theo lời của bà S, chị P1, anh P3, anh P2 rằng diện tích đất ông T1, bà S tạo lập hiện còn lại là 6.403 mét vuông để cắt chia là chưa đảm bảo tính chính xác sẽ dẫn đến khó khăn, ách tắc trong khi thi hành án. Đồng thời cấp sơ thẩm cũng chưa yêu cầu anh P2 đến lô đất tranh chấp để đo đạc xác định vị trí của lô đất có diện tích 3.000 m², mà anh P2 cho rằng anh mua của ông A để xem xét có cơ sở hay không, những vấn đề này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được do đó cần hủy án sơ thẩm để giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
  8.  Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

 Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự

 Quyết định:

Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 4/2009/DSST ngày 29 tháng 10 năm 2009 của tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung

- Trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho các đương sự

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 Nội dung án lệ:

  1. Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn đến năm 1982 và T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bạc T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
  2. Xét sau khi bà tới hai không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có một con chung và có tài sản chung hợp pháp án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.

Trên đây là bản án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế Luật Hòa Nhựt xin gửi tới bạn đọc. Mong rằng bài viết trên là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn. Quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc nào xin vui lòng liên hệ tổng đài 1900.868644 để được tư vấn và giải đáp trực tiếp hoặc gửi yêu cầu về địa chỉ email:luathoanhut.vn@gmail.com. Cảm ơn bạn đã quan tâm theo dõi.