Án lệ số 66/2023/AL về việc xác định tội danh “Mua bán người”

Qua nội dung bài viết dưới đây, Luật Hòa Nhựt chúng tôi sẽ cung cấp thông tin về Án lệ số 66/2023/AL về việc xác định tội danh “Mua bán người” để quý khách tham khảo thông tin hữu ích:

1. Thông tin chung về án lệ

 1.1. Nguồn án lệ

- Nguồn án lệ: Quyết định phúc thẩm số 86/2022/HS-PT, ngày 17/02/2022 của Tòa án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ra phán quyết về vụ án "Mua bán người" liên quan đến hai bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C.

- Tình huống án lệ: Trong vụ án, bị cáo đã thực hiện hành vi lừa dối và hứa hẹn những lợi ích với nạn nhân, làm cho nạn nhân tin tưởng và tự nguyện theo bị cáo rời nước đi nước ngoài. Sau đó, bị cáo đã chuyển giao nạn nhân cho một bên thứ ba để thu lợi từ việc này.

- Giải pháp pháp lý: Trong trường hợp này, Tòa án đã xác định tội danh của bị cáo là "Mua bán người" thay vì tội "Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép". Điều này thể hiện sự chính xác và công bằng trong việc áp dụng pháp luật đối với các hành vi phạm tội liên quan đến mua bán người.

1.2. Tóm tắt nội dung vụ án

Tóm tắt vụ án "Mua bán người" dựa trên tài liệu hồ sơ và diễn biến tòa án:

Vào khoảng tháng 08/2019, Trịnh Thị H qua mạng xã hội Facebook kết nối với người phụ nữ T ở tỉnh Bạc Liêu, hiện sống ở Trung Quốc. T giới thiệu cho H về nhu cầu lấy vợ Việt Nam của người Trung Quốc, hứa trả 04 vạn nhân dân tệ cho mỗi trường hợp chuyển người sang Trung Quốc.

H sau đó đăng bài trên Facebook, được chị Bùi Thị N (sinh năm 1991, trú tại Hải Dương) liên hệ. Hướng dẫn N chuẩn bị giấy tờ để kết hôn với người Trung Quốc. H1 (chồng H) đưa chị N1 đến Hà Nội làm hộ chiếu. H1 thuê taxi đưa chị N1 đến Lạng Sơn, không biết mục đích cụ thể. H thanh toán tiền cho chị C và chị N1, sau đó liên lạc với chủ nhà nghỉ ở Lạng Sơn để sắp xếp chỗ ở và xe đưa họ đi Hà Nam - Trung Quốc.

Ngày 08/01/2020, H đưa chị N1 trốn sang Trung Quốc bằng đường mòn biên giới ở Lạng Sơn. Chị C nhập cảnh bằng hộ chiếu tại cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn. Tại Trung Quốc, C và N1 gặp người đàn ông Trung Quốc dự kiến làm chồng cho chị N1, nhưng sau khi gặp mặt, N1 không đồng ý. H yêu cầu N1 ở lại chờ xem mặt rể khác, nếu không đồng ý, N1 phải trả lại toàn bộ chi phí H đã chi trả. N1 đồng ý ở lại nhưng sau đó trình báo Công an Trung Quốc để được trở về Việt Nam. Ngày 26/3/2020, chị N1 được bàn giao từ Trung Quốc cho Đồn biên phòng cửa khẩu Móng Cái, Quảng Ninh.

Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã ra Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2021/HS-ST ngày 05 tháng 4 năm 2021, tuyên bố bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C phạm tội "Mua bán người." Trịnh Thị H bị phạt 09 năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 16/10/2020, còn Đặng Thị C bị phạt 07 năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giam 30/9/2020.

Về trách nhiệm dân sự, Trịnh Thị H và Đặng Thị C phải liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thị N1 số tiền 30 triệu đồng. Đặng Thị C phải bồi thường thêm 10 triệu đồng, còn Trịnh Thị H phải bồi thường thêm 20 triệu đồng .

Bản án còn đề cập đến xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định. Bị cáo Đặng Thị C và Trịnh Thị H đã nộp đơn kháng cáo ngày 16/4/2021, trong khi đó, bị hại chị Nguyễn Thị N1 nộp đơn kháng cáo quá hạn ngày 21/4/2021. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã chấp nhận đơn kháng cáo của chị Nguyễn Thị N1 thông qua Quyết định giải quyết kháng cáo quá hạn số 36/2021/HSPT-QĐ ngày 17/7/2021.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo (Trịnh Thị H và Đặng Thị C) và bị hại là chị Nguyễn Thị N1 đã có những trình bày như sau:

- Các bị cáo C, H thừa nhận sự thiếu hiểu biết pháp luật và vô tình phạm tội, nhấn mạnh mong muốn giúp chị N1 lấy chồng và chính chị N1 cũng mong muốn được giúp đỡ. Các bị cáo tỏ ra thành khẩn, thừa nhận hành vi phạm tội, đồng thời khẳng định có lòng hối cải. Họ cũng đề cập đến nhân thân tốt, lịch sử lao động chính trong gia đình và khó khăn về kinh tế. Cả hai bị cáo đều đề xuất Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt.

- Bị hại chị N1 xác nhận rằng các bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền 30 triệu đồng theo bản án sơ thẩm và bị hại tự nguyện rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Chị N1 cũng đề nghị giảm hình phạt cho các bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và đề xuất giảm nhẹ hình phạt dựa trên tình tiết mới. Đồng thời, chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại và giữ nguyên án phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào tất cả tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị hại và các bị cáo, Hội đồng xét xử đã đưa ra quyết định giảm một phần hình phạt cho các bị cáo, từ 6 tháng đến 01 năm tù. Đồng thời, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị hại.

2. Nhận định của Tòa án

Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, chứng cứ từ chị N1, người làm chứng, Biên bản giao nhận người giữa Công an Móng Cái và tổ chức R, Giấy chứng nhận về nước của Trạm quản lý xuất nhập cảnh Móng Cái và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án, tòa án đã xác định bị cáo H và C đã thực hiện hành vi phạm tội "Mua bán người" như sau:

- Bị cáo H biết đàn ông Trung Quốc có nhu cầu lấy phụ nữ Việt Nam làm vợ thông qua người tên là T, quê ở tỉnh Bạc Liêu. T đã thông báo với H về khả năng đưa người sang Trung Quốc và H sẽ nhận 04 vạn nhân dân tệ (tương đương 120.000.000đ tiền Việt Nam). H và C đã thỏa thuận: H tìm người, sắp xếp đi lại, liên hệ với người nhận ở Trung Quốc và giá cả; C làm phiên dịch, đưa người sang Trung Quốc, giao người và nhận tiền về đưa cho H. Nội dung này đã được thừa nhận tại phiên tòa, mặc dù có sự khác biệt về khai báo giữa giai đoạn điều tra và tòa án. Bị cáo H khai sau khi bố chị N1 từ chối cho N1 lấy chồng Trung Quốc, H và C mới phân công nhiệm vụ; C lại cho rằng việc đưa chị N1 sang Trung Quốc là do H yêu cầu, chứ không có thảo luận gì trước đó. Điều này cho thấy H và C có động cơ đưa phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc để giao cho T, với mục đích để T bán chị N1 cho đàn ông Trung Quốc làm vợ và nhận tiền. H và C không có chức năng môi giới hôn nhân quốc tế; họ không có ý thức đưa người khác trốn khỏi nước ngoài. Trong vụ án này, bị hại là chị N1, nhưng H và C coi chị N1 như một đối tượng trao đổi để kiếm tiền.

- Bị cáo H và C đã sử dụng mưu mô và thuyết phục chị N1 bằng cách lừa đảo, tạo ra một hình ảnh hấp dẫn về cuộc sống hôn nhân với đàn ông Trung Quốc. Họ hứa cho chị N1 cơ hội gặp chú rể, làm thủ tục kết hôn tại Việt Nam và nhận được số tiền sính lễ 60 triệu đồng cùng với tiền gửi về gia đình. Tình huống này khiến chị N1 tin tưởng và đồng ý lấy chồng Trung Quốc, mặc dù gia đình chị N1 không đồng ý.

- Ngày 06/01/2020, H đã sắp xếp cho người đến đón chị N1 để làm hộ chiếu và ngày 07/01/2020, H và C đã bắt xe cho C lên Lạng Sơn gặp chị N1 ở nhà nghỉ Y, tiếp theo đã đưa chị N1 sang Trung Quốc. Tại đó, chị N1 bị bán cho người của T với giá 1.000 nhân dân tệ. Chị N1 sau đó liên hệ gia đình và người quen ở Trung Quốc để trình báo vụ án. Ngày 26/3/2020, chị N1 được bàn giao cho lực lượng Biên phòng Việt Nam tại cửa khẩu Móng Cái - Quảng Ninh, theo văn bản ghi rõ bàn giao người bị bán sang Trung Quốc.

- Bị cáo H và C đã sử dụng thủ đoạn lừa đảo để thuyết phục chị N1 rằng việc lấy chồng Trung Quốc sẽ mang lại cuộc sống sung sướng và tiền bạc. Chị N1, tưởng rằng mọi điều là thật, đã bị đưa sang Trung Quốc và bán cho người khác với mục đích kiếm lời từ hành vi này.

- Các bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C đã bị tòa án cấp sơ thẩm xử lý về tội "Mua bán người" theo điểm d khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự và mức hình phạt đã được áp dụng theo khung hình phạt, được coi là phù hợp với tội danh này.

- Trong quá trình xét xử, tòa án đã đánh giá vai trò và trách nhiệm của hai bị cáo, xác định Trịnh Thị H có vai trò cao hơn so với Đặng Thị C. Cả hai bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do có thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, có nhân thân tốt và không từng vi phạm pháp luật trước đây. Bị cáo Đặng Thị C còn được khen ngợi bởi việc bố mẹ đẻ được tặng thưởng Huân, Huy chương, Bằng khen. Do đó, mức hình phạt áp dụng cho bị cáo Trịnh Thị H được coi là cao hơn so với bị cáo Đặng Thị C và điều này được xem xét là đúng đắn trong quá trình xử lý vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền 30 triệu đồng cho bị hại và bị hại đã xác nhận đồng ý và rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Các bị cáo cũng đề nghị giảm hình phạt và tòa án xem xét tình tiết giảm nhẹ mới được áp dụng cho các bị cáo, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình xét xử, bị hại đã tự nguyện rút kháng cáo và Hội đồng xét xử, dựa trên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và căn cứ vào Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị hại.

Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao được coi là có căn cứ và được chấp nhận. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và kháng nghị và có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Các bị cáo và bị hại không phải chịu án phí phúc thẩm.

3. Quyết định của Tòa án

Tòa án đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị Nguyễn Thị N1. Tòa án cũng chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C trong vụ án "Mua bán người".

Cụ thể, bị cáo Trịnh Thị H bị xử phạt 8 năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/10/2020 và bị cáo Đặng Thị C bị xử phạt 6 năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/9/2020.

Về trách nhiệm dân sự, các bị cáo đã hoàn thành việc bồi thường trách nhiệm dân sự cho bị hại với số tiền 30 triệu đồng theo quyết định của bản án hình sự sơ thẩm. Các bị cáo và bị hại không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Liên hệ qua 1900.868644 hoặc luathoanhut.vn@gmail.com