1. Bị ép đưa hối lộ thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

Nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà Điều 364 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định, hành vi đưa hối lộ sẽ chịu trách nhiệm hình sự.
Mặt khách quan của việc này thể hiện qua hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đã cung cấp hoặc sẽ cung cấp lợi ích cho những người có chức vụ, quyền hạn hoặc bất kỳ tổ chức nào, để họ thực hiện hoặc không thực hiện một hành động theo ý muốn hoặc yêu cầu của người đưa hối lộ. Lợi ích này có thể bao gồm tiền, tài sản, hoặc các lợi ích vật chất khác với giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc lợi ích phi vật chất.

Về mặt chủ quan, người phạm tội đưa hối lộ luôn thực hiện hành vi vi phạm tội với ý định cố ý. Nghĩa là họ nhận thức rõ rằng hành vi của họ mang lại nguy hiểm cho xã hội, đồng thời họ hiểu trước được hậu quả của hành động đó và mong muốn những hậu quả đó xảy ra.

Về khách thể, chủ thể của tội đưa hối lộ là các cơ quan và tổ chức hoạt động đúng đắn. Cần lưu ý rằng người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức tội phạm trong chương "các tội phạm về chức vụ"; điều này là vì khách thể của tội phạm là cơ quan hoặc tổ chức, không phải là chủ thể của tội phạm.

Đối với mặt chủ thể, người phạm tội đưa hối lộ là những người từ 16 tuổi trở lên và có khả năng chịu trách nhiệm hình sự.

Hơn nữa, theo Quy định Khoản 7 của Điều 364 trong Bộ Luật Hình sự năm 2015, quy định rằng nếu người bị ép buộc đưa hối lộ tự nguyện khai báo trước khi bị phát giác, họ sẽ được xem là không có tội và sẽ được hoàn trả toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ. Điều này áp dụng khi tình tiết này được chứng minh.

Do đó, khi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ theo quy định đã nêu, chủ thể thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với trường hợp bị ép buộc đưa hối lộ, đặc biệt là khi người đưa hối lộ tự nguyện khai báo trước khi bị phát giác, họ sẽ được xem xét là không có tội và được hoàn trả toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ.

Do đó, trong trường hợp bị ép buộc đưa hối lộ mà người này không tự nguyện khai báo trước khi bị phát giác, vẫn có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi các yếu tố cấu thành tội này được chứng minh.

 

2. Miễn TNHS nhằm khuyến khích việc chủ động tố giác tội phạm nhận hối lộ

Thực tế cho thấy rằng việc trao đổi hối lộ thường chỉ được biết đến bởi một số ít người, diễn ra ẩn lấp ở những nơi kín đáo, tạo điều kiện cho tội phạm tham nhũng khó bị phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật. Để đối mặt với thách thức này và để thúc đẩy cuộc chiến, phòng chống và xử lý tội phạm tham nhũng, đặc biệt là hành vi đưa và nhận hối lộ, Bộ Luật Hình sự 2015 đã đề ra các quy định nhằm bảo vệ người tố giác tội phạm và khuyến khích sự chủ động trong việc tố giác, phát hiện và chống lại tội phạm này.

Theo Khoản 7 của Điều 364 Bộ Luật Hình sự 2015:

- Người bị ép buộc đưa hối lộ, nếu chủ động khai báo trước khi bị phát hiện, sẽ được coi là không có tội và được hoàn trả toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ.

- Người đưa hối lộ, không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát hiện, có thể được miễn trách nhiệm hình sự và nhận lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ.

Theo quy định này, người đưa hối lộ sẽ được xem xét theo 2 trường hợp:

- Trong trường hợp người đưa hối lộ bị người nhận hối lộ ép buộc, đe dọa về tinh thần hoặc thể chất, khiến cho họ phải đưa hối lộ miễn cưỡng, người này được coi là không có tội và được hoàn trả toàn bộ tài sản đã dùng để đưa hối lộ.

- Nếu người đưa hối lộ chủ động, không bị ép buộc, đồng thời có ý thức chủ quan trong việc tiếp cận và thực hiện hành vi đưa hối lộ, họ sẽ chỉ được miễn trách nhiệm hình sự và có thể nhận lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ.

Những quy định này không chỉ bảo vệ toàn diện người tố giác tội phạm mà còn khuyến khích sự chủ động trong việc tố giác hành vi tiêu cực, tham nhũng và đóng góp vào cuộc đấu tranh, phát hiện và xử lý các trường hợp liên quan đến tham nhũng và nhận hối lộ.

 

3. Đưa hối lộ bị xử lý như thế nào?

 

3.1. Xử phạt hành chính

Dựa trên quy định tại Khoản 3, Điều 21 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP về hành vi đưa hối lộ cho người thi hành công vụ, các hành vi sau sẽ bị xử phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng:

- Sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để chống lại người thi hành công vụ;

- Gây thiệt hại về tài sản hoặc phương tiện của cơ quan nhà nước hoặc của người thi hành công vụ;

- Đưa hối lộ tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất cho người thi hành công vụ.

Do đó, trong trường hợp vi phạm hành vi đưa hối lộ cho người thi hành công vụ mà không đạt mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đối tượng có thể phải chịu mức phạt hành chính từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng. Điều đặc biệt quan trọng là đối với tổ chức có liên quan đến hành vi vi phạm này, mức phạt tiền sẽ tăng gấp đôi so với mức phạt áp dụng cho cá nhân, theo quy định tại Khoản 2, Điều 4 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP.

 

3.2. Truy cứu trách nhiệm hình sự

Điều 364 của Bộ luật Hình sự 2015 chi tiết quy định về tội đưa hối lộ như sau:

- Người trực tiếp hoặc thông qua trung gian đã hoặc sẽ đưa hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác, hoặc tổ chức, với mục đích ảnh hưởng đến quyết định của người đó, sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Các lợi ích bao gồm tiền, tài sản, hoặc lợi ích vật chất từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng và lợi ích phi vật chất.

- Phạm tội trong một số trường hợp nhất định sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, bao gồm:

+ Có tổ chức;

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

+ Sử dụng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Của hối lộ có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

- Trong trường hợp của hối lộ có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

- Phạm tội hối lộ có giá trị từ 1.000.000.000 đồng trở lên sẽ bị phạt từ 12 năm đến 20 năm tù.

- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

- Người đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho các công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước sẽ bị xử lý theo quy định của Điều này.

- Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, sẽ được xem là không có tội và được trả lại toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ, mặc dù không bị ép buộc, nhưng chủ động khai báo trước khi bị phát giác, có thể được miễn trách nhiệm hình sự và nhận lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã sử dụng để đưa hối lộ.

Tóm lại, nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định trên, người đưa hối lộ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự với mức phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tù tùy thuộc vào mức độ của vi phạm. Thêm vào đó, họ cũng có thể bị phạt tiền theo quy định tại khoản 5 của Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015.

Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.868644 hoặc email: luathoanhut.vn@gmail.com. Xin trân trọng cảm ơn!