1. Y tá đánh tráo trẻ sơ sinh do ép buộc thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Trẻ sơ sinh là những trẻ em từ khi chào đời cho tới khi 1 tháng tuổi, hiện tượng mà đánh tráo trẻ sơ sinh diễn ra rất nhiều và phổ biến hiện nay, suất phát từ nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên thì theo quy định cụ thể tại Điều 152 Bộ luật Hình sự 2015 thì có quy định về tội đánh người dưới 01 tuổi. Cụ thể như sau:
Người nào đánh tráo người dưới 01 tuổi thì sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm
Phạm tội thuộc vào một trong các trường hợp như là có tổ chức, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp, phạm tội đối với người dưới 1 tuổi mà minh có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng, phạm tội 02 lần trở lên thì sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm theo quy định của pháp luật
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm nguy hiểm thì sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm tù
Bên cạnh đó thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Y tá mà đánh tráo trẻ sơ sinh do bị ép buộc thì không phải thuộc vào trường trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự cho nên nếu mà y tá thực hiện hành vi vi phạm mà cấu thành đủ cấu thành phạm tội thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với y tá mà đánh tráo trẻ sơ sinh do bị ép buộc thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại khung 2 bởi được xem vào trường hợp là có lợi dụng chức vụ quyền hạn nghề nghiệp thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm theo quy định pháp luật.
Như vậy thì người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi đánh tráo người dưới 01 tuổi thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Cho nên, y tá đánh tráo trẻ sơ sinh do bị ép buộc thì cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
2. Trách nhiệm bồi thường của y tá trong trường hợp đánh tráo trẻ sơ sinh
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm pháp lý mà một người phải chịu khi hành vi của họ gây thiệt hại cho người khác, mặc dù không có một mối quan hệ hợp đồng cụ thể giữa họ. Điều này thường được xem xét dưới góc độ của trách nhiệm dân sự.
Theo đó thì trách nhiệm bồi thường phát sinh khi cá nhân thực hiện hành vi có lỗi, dẫn đến có những thiệt hại cụ thể thì có trách nhiệm phải bồi thường, tùy thuộc vào hậu của của hành vi là gì mà có những quy định về bồi thường cụ thể khác nhau. Theo đó thì bồi thường sẽ thực hiện theo quy tắc của Bộ luật Dân sự 2015.
Vậy thì nếu y tá thực hiện bồi thường thiệt hại thì được xem là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không?
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Điều này có thể được coi là một tình tiết giảm nhẹ vì nó cho thấy người phạm tội đã có hành động tích cực để giảm thiểu hậu quả của tội phạm.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: Hành động tự nguyện như sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả có thể được xem xét là một tình tiết giảm nhẹ, vì nó thể hiện sự đền bù hoặc sửa sai từ phía người phạm tội.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng: Điều này có thể là một tình tiết giảm nhẹ nếu có thể chứng minh rằng người phạm tội đã hành động trong tình thế tự vệ và đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng do tình thế cụ thể.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết: Nếu có thể chứng minh rằng người phạm tội đã hành động trong tình thế cấp thiết và họ chỉ vượt quá yêu cầu của tình thế, điều này cũng có thể được xem xét là một tình tiết giảm nhẹ.
Trong nhiều hệ thống pháp luật, việc người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, cũng như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải thường được xem xét là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng về việc xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm nghiêm trọng của tội phạm, sự thành khẩn của hối cải, và mức độ tự nguyện của việc bồi thường.
3. Đánh tráo trẻ sơ sinh là một hành vi nghiêm cấm trong Luật trẻ em
Căn cứ dựa theo quy định tại Điều 6Luật Trẻ em 2016các quy định bị nghiêm cấm cụ thể như sau:
Tước đoạt quyền sống của trẻ em: Hành động này liên quan đến việc cướp đoạt quyền sống của trẻ em, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của họ.
Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em: Những hành động này bao gồm việc bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo hoặc chiếm đoạt quyền tự do của trẻ em.
Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em: Gồm những hành vi xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng tâm lý, và bóc lột quyền lợi của trẻ em.
Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn: Liên quan đến việc tổ chức, hỗ trợ, xúi giục hoặc ép buộc trẻ em thực hiện hành động tảo hôn mà họ không muốn.
Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác: Hành động này liên quan đến việc lợi dụng trẻ em để thực hiện hành vi phạm tội hoặc xúc phạm danh dự người khác.Các hành vi này thường liên quan đến việc áp đặt áp lực hoặc lợi dụng trẻ em để họ thực hiện các hành động không phù hợp hoặc đau lòng, có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động phạm tội, xâm hại tình dục, hay xúc phạm danh dự và nhân phẩm của người khác. Việc bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi như vậy là ưu tiên hàng đầu của nhiều hệ thống pháp luật và tổ chức bảo vệ trẻ em. Những người thực hiện các hành vi này thường bị xem xét và truy cứu trách nhiệm hình sự để đảm bảo an toàn và phát triển đúng mực cho trẻ em.
Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình: Bao gồm những hành vi cản trở quyền và bổn phận tự do, giáo dục và phát triển của trẻ em. Hành vi này bao gồm mọi hoạt động nhằm ngăn cản hoặc hạn chế quyền tự do, giáo dục và phát triển tự nhiên của trẻ em. Điều này có thể bao gồm cấm định không chính đáng, hạn chế quyền tự do cá nhân, hay ngăn cản trẻ em tiếp cận giáo dục hoặc cơ hội phát triển tích cực. Có thể thể hiện qua việc cưỡng bức, áp đặt ý kiến, giữ giáo dục, tôn trọng cá nhân, và tự do cá nhân của trẻ em. Hành vi này có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với tâm lý và tinh thần của trẻ em và có thể tạo ra những hệ quả xấu về mặt xã hội và tâm lý. Mục tiêu chính của bảo vệ trẻ em là đảm bảo rằng họ có quyền được phát triển toàn diện, tự do cá nhân và thực hiện quyền lợi của mình trong môi trường an toàn và hỗ trợ. Các hành vi cản trở như vậy thường được xem xét là không chấp nhận được và có thể bị xử lý bởi pháp luật để bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của trẻ em.
Không cung cấp hoặc che giấu, ngăn cản việc cung cấp thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền: Liên quan đến việc giấu thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực, và cản trở việc báo cáo và can thiệp.
Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em: Bao gồm mọi hành vi phân biệt đối xử dựa trên các đặc điểm cá nhân, văn hóa, giới tính, hoàn cảnh gia đình, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em.
Bán cho trẻ em hoặc cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em: Hành vi này bao gồm việc bán hoặc cung cấp cho trẻ em các chất gây nghiện, thuốc lá, rượu, thực phẩm không an toàn, có thể gây hại cho sức khỏe của họ.
Như vậy thì hành vi đánh tráo trẻ em là hành vi bị nghiêm cấm theo Luật Trẻ em 2016
Vui lòng liên hệ 1900.868644 hoặc luathoanhut.vn@gmail.com