Cố ý gây thương tích cho người khác nhưng đã được ngăn cản lại có là phạm tội chưa đạt?

Trong trường hợp một người có ý định cố ý gây thương tích cho người khác, nhưng hành vi của họ đã bị ngăn cản và không gây ra tổn thương cơ thể đối với nạn nhân thì liệu trường hợp này có thuộc phạm tội chưa đạt hay không?

1. Cố ý gây thương tích cho người khác nhưng đã được ngăn cản lại có là phạm tội chưa đạt?

Phạm tội chưa đạt là một khái niệm pháp lý được quy định trong Điều 15 của Bộ luật Hình sự 2015 tại Việt Nam. Theo đó: Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt

Theo quy định hiện hành, phạm tội chưa đạt được định nghĩa là hành vi cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thể thực hiện đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn.

Như vậy, phạm tội chưa đạt có thể được chia thành hai loại: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.

Trong trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, một cá nhân đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì một nguyên nhân bất ngờ nào đó, hậu quả của việc phạm tội không xảy ra.

Còn với trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, người phạm tội không thể hoàn thành hành vi phạm tội do những nguyên nhân đặc biệt.

Trong trường hợp của bạn, anh đã bị ngăn chặn kịp thời khi sử dụng dao tấn công người khác, do đó đây là một trường hợp phạm tội chưa đạt.

Theo quy định pháp luật, người phạm tội chưa đạt vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội phạm chưa đạt mà họ đã cố gắng thực hiện. Điều này đảm bảo tính công bằng và ngăn chặn những hành vi tiềm ẩn nguy cơ phạm tội, dù chưa thành công.

Phạm tội chưa đạt là một khái niệm quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nó giúp xác định trách nhiệm hình sự của các tội phạm không hoàn thành và tạo ra cơ chế pháp lý để đánh giá và xử lý những hành vi tiềm ẩn nguy cơ phạm tội. Cần có sự cân nhắc tỉ mỉ và công bằng từ phía cơ quan điều tra và tòa án để đảm bảo rằng chỉ những hành vi thực sự có yếu tố cố ý và gây nguy hiểm cho xã hội mới bị xem là phạm tội chưa đạt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng.

 

2. Hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt được cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định như thế nào?

Căn cứ vào Điều 57 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, việc quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt được thực hiện như sau:

- Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, việc quyết định hình phạt dựa trên các quy định của Bộ Luật Hình sự về các tội phạm tương ứng, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý định phạm tội và các tình tiết khác làm cho tội phạm không thể thực hiện được đến cùng. Điều này có nghĩa là cơ quan xét xử và tòa án sẽ xem xét các yếu tố như tính chất của hành vi, mức độ nguy hiểm và cố ý thực hiện tội phạm để quyết định mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt tương ứng.

- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các luật cụ thể liên quan. Điều này có nghĩa là nếu luật có quy định về hình phạt cho hành vi chuẩn bị phạm tội, cơ quan xét xử và tòa án sẽ xem xét và áp dụng mức hình phạt trong phạm vi quy định đó.

- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu luật áp dụng có quy định hình phạt tối cao là tù chung thân hoặc tử hình, thì hình phạt tù không vượt quá 20 năm; còn nếu là tù có thời hạn, thì mức hình phạt không vượt quá ba phần tư mức hình phạt tù mà luật quy định. Điều này đảm bảo rằng người phạm tội chưa đạt không bị kết án với mức hình phạt quá cao và không tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của họ. Việc giới hạn mức hình phạt cũng tạo cơ hội cho người phạm tội chưa đạt để sửa đổi và hòa nhập lại vào xã hội sau khi đã nhận thức được sự sai trái của hành vi của mình.

Theo quy định của Điều 57 trong Bộ Luật Hình sự năm 2015, khi xét xử trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu luật áp dụng có quy định về hình phạt tối cao là tù chung thân hoặc tử hình, thì hình phạt tù không được vượt quá 20 năm. Trong trường hợp hình phạt là tù có thời hạn, mức hình phạt không vượt quá ba phần tư mức hình phạt tù mà luật quy định.

Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng và tỷ lệ hình phạt trong việc xử lý các vụ án phạm tội chưa đạt. Trước tiên, nếu luật có quy định hình phạt tối đa là tù chung thân hoặc tử hình, giới hạn hình phạt tù không quá 20 năm là để đảm bảo rằng người phạm tội chưa đạt không bị kết án với mức hình phạt ác liệt như trong các vụ án đã hoàn thành. Điều này phù hợp với nguyên tắc cá nhân hóa hình phạt, bởi vì hành vi phạm tội chưa đạt không gây ra những hậu quả nghiêm trọng như trong các vụ án đã hoàn thành.

Thứ hai, trong trường hợp hình phạt là tù có thời hạn, mức hình phạt không vượt quá ba phần tư mức hình phạt tù mà luật quy định. Điều này nhằm tránh áp đặt mức hình phạt quá nặng đối với những người phạm tội chưa đạt, đồng thời tạo ra sự cân nhắc và linh hoạt trong việc áp dụng hình phạt. Việc giới hạn mức hình phạt này cũng đồng nghĩa với việc đưa ra cơ hội cho người phạm tội chưa đạt để sửa đổi và tái hòa nhập vào xã hội sau khi đã nhận thức được hành vi sai trái của mình.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc áp dụng hình phạt vẫn phải tuân thủ nguyên tắc pháp lý và cân nhắc đầy đủ các yếu tố tình tiết trong từng trường hợp cụ thể. Cơ quan xét xử và tòa án sẽ xem xét mức độ đáng trách nhiệm và những tình tiết khác liên quan để quyết định mức hình phạt cuối cùng cho người phạm tội chưa đạt, đảm bảo tính công bằng, phù hợp và tương xứng với tình hình cụ thể của từng trường hợp.

 

3. Truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào đối với tội dùng dao gây thương tích cho người khác thì bị?

Theo Điều 134 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 22 của Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), có quy định về tội ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Cụ thể như sau:

- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

+ Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

+ Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

+ Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

+ Có tổ chức;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

+ Có tính chất côn đồ;

+ Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Tái phạm nguy hiểm;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Theo quy định hiện hành, mức truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác sẽ phụ thuộc vào mức độ tổn thương cơ thể gây ra đối với nạn nhân. Điều này có nghĩa là mức án hình sự sẽ được xác định dựa trên mức độ hại đến sức khỏe của người bị hại.

Mức án tối thiểu cho tội này là bị phạt cải tạo không giam giữ trong khoảng thời gian từ 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Tuy nhiên, mức trừng phạt cụ thể sẽ tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đối với xã hội, mức độ thực hiện ý định phạm tội và các yếu tố khác làm cho tội phạm không thể hoàn thành hành vi phạm tội đến cùng. Cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét và áp dụng hình phạt tương ứng dựa trên những tình tiết nêu trên.

Trước khi quyết định mức án, cơ quan tư pháp sẽ xem xét kỹ lưỡng các yếu tố liên quan đến vụ việc. Những yếu tố này có thể bao gồm sự cố ý của tội phạm, sự lợi dụng chức vụ hoặc quyền hạn, việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ hoặc hung khí nguy hiểm, sử dụng axít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm, và tình trạng của nạn nhân như tuổi tác, tình trạng sức khỏe, hoặc quan hệ với tội phạm. Những yếu tố này sẽ được đánh giá để xác định mức độ nghiêm trọng của tội và áp dụng hình phạt phù hợp.

Điều này nhằm đảm bảo rằng mức án truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ phản ánh đúng mức độ tổn thương cơ thể và mức độ nguy hiểm gây ra bởi hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác. Bằng cách này, công lý sẽ được thi hành một cách công bằng và hợp lý để bảo vệ quyền lợi và an toàn của các cá nhân trong xã hội.

Liên hệ đến hotline 1900.868644 hoặc email: luathoanhut.vn@gmail.com để được tư vấn pháp luật