Mua bán thận người có bị tử hình hay không?

Dưới đây là bài viết liên quan đến nội dung Mua bán thận người có bị tử hình hay không? Mời quý bạn đọc tham khảo để biết thêm thông tin chi tiết.

1. Mua bán thận người là hành vi trái pháp luật

Theo Điều 11 của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác năm 2006, các quy định sau đây được áp dụng với các hành vi bị nghiêm cấm:

+ Lấy trộm mô, bộ phận cơ thể người; lấy trộm xác: Lấy trộm mô, bộ phận cơ thể người là việc lấy trộm mô và bộ phận cơ thể người mà không có sự đồng ý của người đó. Lấy trộm xác là hành động lấy cắp hoặc sử dụng xác người mà không có sự đồng ý của người đã mất.

+ Ép buộc người khác phải cho mô, bộ phận cơ thể người hoặc lấy mô, bộ phận cơ thể của người không tự nguyện hiến: Bắt buộc người khác phải hiến mô hoặc bộ phận cơ thể của họ mà không có sự đồng ý.

+ Mua, bán mô, bộ phận cơ thể người; mua, bán xác: Hoạt động mua bán mô và bộ phận cơ thể người hoặc xác người. Lấy, ghép, sử dụng, lưu giữ mô, bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại: Sử dụng mô và bộ phận cơ thể người cho mục đích thương mại mà không có sự đồng ý hoặc hợp pháp. Lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống dưới mười tám tuổi: Thực hiện quá trình lấy mô và bộ phận cơ thể ở người chưa đủ tuổi mà không có sự đồng ý của họ hoặc của phụ huynh hợp pháp.

+ Ghép mô, bộ phận cơ thể của người bị nhiễm bệnh theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định: Thực hiện ghép mô và bộ phận cơ thể từ người nhiễm bệnh mà không tuân thủ các quy định y tế. Cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời: Cấy tinh trùng, noãn, hoặc phôi giữa những người có quan hệ họ hàng cận thị và giữa những người có họ khác nhau mà không tuân thủ quy định.

+ Quảng cáo và môi giới việc hiến bộ phận cơ thể người với mục đích thương mại là hành vi vi phạm đạo luật: Việc tiết lộ thông tin và bí mật về người hiến và người được ghép cơ thể một cách không tuân theo quy định của pháp luật cũng là một vi phạm nghiêm trọng. Lợi dụng chức vụ và quyền hạn để làm sai lệch kết quả xác định chết não là hành động không đúng và không đạo đức.

Những hành vi này đều là những vấn đề đặc biệt nhạy cảm, liên quan đến đạo đức, đạo lý và được quy định rõ trong pháp luật.

Bên cạnh đó, theo Điều 4 của Luật nói trên, các nguyên tắc sau đây áp dụng trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác: Các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác:

+ Quyết định hiến mô, bộ phận cơ thể hoặc xác là một quyết định tự nguyện của người hiến hoặc người được ủy quyền đại diện.

+ Mục đích sử dụng mô, bộ phận cơ thể hoặc xác phải liên quan đến việc cứu chữa, nâng cao sức khỏe, giảng dạy y học, hoặc nghiên cứu khoa học. Cấm sử dụng hoặc môi giới mô, bộ phận cơ thể hoặc xác với mục đích thương mại hay lợi nhuận cá nhân.

+ Yêu cầu việc giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến và người được ghép, trừ khi có sự đồng ý hoặc quy định khác từ các bên liên quan hoặc theo quy định của pháp luật.  Đảm bảo rằng người hiến và người được ghép đã hiểu và đồng thuận đầy đủ với quy trình và mục đích của việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể hoặc hiến, lấy xác.

+ Bảo đảm rằng không có áp đặt, đe dọa, hoặc sử dụng bất kỳ áp lực nào để đưa ra quyết định hiến mô, bộ phận cơ thể hoặc xác. Cung cấp thông tin chân thành và minh bạch về quá trình hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể hoặc hiến, lấy xác, cũng như mục đích sử dụng. Tuân thủ mọi quy định đạo đức và pháp luật liên quan đến việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể hoặc hiến, lấy xác. Đảm bảo rằng người hiến và người được ghép có quyền từ chối hoặc rút lại sự đồng thuận mà không gặp bất kỳ hậu quả tiêu cực nào.

Những nguyên tắc này thường được tích hợp vào các hệ thống y tế và pháp luật để đảm bảo an toàn, công bằng và minh bạch trong quá trình hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác.. Như vậy, theo quy định của pháp luật, các hành vi mua bán thận, mua bán mô, bộ phận cơ thể người, và mua bán xác đều bị nghiêm cấm. Việc hiến thận hoặc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác phải tuân thủ nguyên tắc tự nguyện và không vì mục đích thương mại.

2. Mua bán thận người có bị tử hình không?

Quy định về hành vi mua bán thận trong Điều 154 của Bộ luật Hình sự 2015 được miêu tả như sau: Người nào thực hiện việc mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Trong trường hợp hành vi mua bán thỏa mãn một số điều kiện nhất định, người phạm tội có thể đối mặt với mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm, bao gồm có tổ chức, mục đích thương mại, lợi dụng chức vụ hoặc quyền hạn, liên quan đến từ 02 người đến 05 người, phạm tội 02 lần trở lên, gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

Trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, nếu hành vi mua bán thỏa mãn các điều kiện như có tính chất chuyên nghiệp, gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, liên quan đến 06 người trở lên, gây chết người, hoặc tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc làm công việc nhất định trong khoảng từ 01 năm đến 05 năm.

Do đó, người thực hiện hành vi mua bán thận có thể phải chịu mức phạt tù từ 03 năm đến 20 năm hoặc thậm chí là tù chung thân, tùy thuộc vào tính chất và nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Ngoài ra, theo Điều 17 của Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017), khái niệm "đồng phạm" áp dụng khi có hai người trở lên thực hiện cùng một tội phạm. Trong trường hợp đường dây mua bán thận, đồng phạm có thể bao gồm người tổ chức, người thực hiện, người xúi giục và người giúp sức. Các đối tượng tham gia trong đường dây mua bán thận sẽ được coi là đồng phạm, và họ có thể phải đối mặt với quy định của tội danh "Mua bán bộ phận cơ thể người". Mức hình phạt sẽ phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi, cũng như vai trò cụ thể của từng đối tượng (chủ mưu cầm đầu, thực hiện, xúi giục, hoặc giúp sức). Tùy thuộc vào vai trò cụ thể, người phạm tội sẽ phải chịu mức hình phạt tương ứng, tuân theo quy định của pháp luật.

3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của hành vi mua bán thận

Dựa vào quy định của Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, các quy định sau đây được áp dụng: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là khoảng thời gian mà khi hết thời hạn đó, người phạm tội không còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định như sau: 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng. 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng. 15 năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng. 20 năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Phân loại tội phạm theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017): Tội phạm ít nghiêm trọng: Phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm. Tội phạm nghiêm trọng: Phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm. Tội phạm rất nghiêm trọng: Phạt tù từ trên 07 năm đến 15 năm. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Do đó, hành vi mua bán thận có thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự lên đến 20 năm, và áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình khi hành vi này được xem là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Nếu có bất cứ vấn đề pháp lý nào cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ tới bộ phận tư vấn pháp luật qua số điện thoại: 1900.868644 hoặc gửi yêu cầu qua địa chỉ email: luathoanhut.vn@gmail.com. Trân trọng!