Mức phạt tù cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến chết người

Cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến chết người là hành vi vi phạm pháp luật và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự hiện hành. Dưới đây là bài viết liên quan đến nội dung này. Mời quý bạn đọc tham khảo để biết thêm thông tin chi tiết.

1. Mức phạt tù khi cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến chết người

Theo Điều 350 củaBộ luật Hình sự 2015 và điểm s khoản 2 của Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép được quy định như sau:

- Người phạm tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, trừ trường hợp quy định tại Điều 120 của Bộ luật này, sẽ bị phạt tù từ 02 đến 07 năm.

- Nếu vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây, sẽ bị phạt tù từ 05 đến 12 năm: Phạm tội 02 lần trở lên; Liên quan đến từ 05 đến 10 người; Có tính chất chuyên nghiệp; Với động cơ đê hèn; Tái phạm nguy hiểm.

- Trong trường hợp vi phạm thuộc một trong các điều kiện sau đây, sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20 năm: Liên quan đến 11 người trở lên; Gây ra cái chết của người khác. Mức phạt tù trong trường hợp này cao hơn so với các trường hợp khác để phản ánh mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Do đó, theo quy định này, người cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến cái chết của họ có thể bị kết án với mức phạt tù từ 12 đến 20 năm. Điều này phản ánh sự nghiêm trọng và nguy hiểm của hành vi vi phạm đối với tính mạng và quyền lợi của người bị ép buộc.

 

2. Trách nhiệm bồi thường của người ép buộc người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến người đó chết

Căn cứ theo quy định của Điều 591 trong Bộ luật Dân sự năm 2015 về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, nội dung được trình bày như sau: Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này; Chi phí hợp lý cho việc mai táng; Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; Thiệt hại khác do luật quy định. Những khoản bồi thường này nhằm bảo đảm rằng người bị thiệt hại và người thân của họ được đền bù đầy đủ về cả mặt vật chất và tinh thần.

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại theo quy định, cùng với một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại. Trong trường hợp không có những người này, tiền bồi thường sẽ được trao cho người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu không có ai trong những người này, người bị thiệt hại sẽ được hưởng khoản tiền này. Điều này nhấn mạnh việc bồi thường không chỉ giới hạn trong phạm vi thiệt hại vật chất mà còn bao gồm cả tổn thất về tinh thần và tình cảm của người thân.

Lưu ý rằng mức độ bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm sẽ được thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp không có thỏa thuận, mức tối đa cho một người bị xâm phạm tính mạng không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Do đó, nếu có việc ép buộc người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến cái chết, người này sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường các loại thiệt hại được nêu trên theo quy định của pháp luật, bao gồm cả thiệt hại về tinh thần, với mức tối đa như quy định.

 

3. Cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến chết người rồi tự thú có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?

Theo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều này được quy định như sau:

- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc giảm bớt hậu quả của hành vi phạm tội; Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; Hành vi phạm tội vượt quá giới hạn tự vệ chính đáng; Hành vi phạm tội vượt quá yêu cầu của tình thế khẩn cấp; Hành vi phạm tội vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Hành vi phạm tội được kích động bởi tình thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; Hành vi phạm tội được thực hiện trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do bản thân gây ra; Người phạm tội có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình; Người phạm tội tự thú.

- Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể xem xét đầu thú hoặc các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Điều này nhấn mạnh sự minh bạch và công bằng trong quá trình tố tụng, cũng như giúp người bị kết án hiểu rõ lý do tại sao họ nhận được mức hình phạt như vậy.

- Các tình tiết giảm nhẹ đã được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định ràng thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. Điều này có nghĩa là trong trường hợp người cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến cái chết và sau đó tự thú, việc tự thú không thể được coi là một tình tiết giảm nhẹ trong việc xác định hình phạt. Tuy nhiên, việc tự thú có thể ảnh hưởng đến quá trình tố tụng và được xem xét trong việc xử lý hình sự.

 

4. Đương nhiên xoá án tích sau khi người cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép chấp hành xong hình phạt tù?

Theo Điều 70 của Bộ luật Hình sự 2015 về việc đương nhiên được xóa án tích, quy định như sau: Đương nhiên được xóa án tích áp dụng cho người bị kết án không liên quan đến các tội phạm thuộc Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này sau khi họ đã hoàn tất thi hành hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc đã hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều này.

Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu sau khi hoàn tất thi hành hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, họ đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện bổ sung trong bản án và không phạm tội mới trong thời gian sau đây: 01 năm đối với các mức phạt như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; 02 năm đối với các mức phạt tù từ 05 năm trở xuống; 03 năm đối với các mức phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; 05 năm đối với các mức phạt tù từ trên 15 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Điều này nhấn mạnh vai trò của việc tuân thủ pháp luật và cải thiện hành vi trong quá trình thi hành hình phạt và sau khi thi hành xong hình phạt.

Trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc cụ thể, và thời hạn này lâu hơn so với thời hạn quy định cho việc xóa án tích, thì thời gian đương nhiên được xóa án tích sẽ kết thúc khi người đó hoàn tất thi hành hình phạt bổ sung. Điều này đảm bảo rằng người bị kết án sẽ được xóa án tích sau khi thực hiện đầy đủ các yêu cầu của bản án, bao gồm cả hình phạt bổ sung.

Do đó, trong trường hợp người cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép dẫn đến cái chết và nhận án phạt tù từ 12 đến 20 năm, sau khi hoàn tất thi hành án phạt và không vi phạm pháp luật mới trong thời gian 03 hoặc 05 năm (tùy thuộc vào mức án), người này có thể đương nhiên được xóa án tích. Điều này phản ánh chính sách hồi phục và tái hòa nhập của hệ thống pháp luật, đồng thời nhấn mạnh vai trò của việc tuân thủ pháp luật sau khi đã thực hiện hình phạt.

Nếu có bất cứ vấn đề pháp lý nào cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ tới bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số điện thoại: 1900.868644 hoặc gửi yêu cầu qua địa chỉ email: luathoanhut.vn@gmail.com. Trân trọng!