Sử dụng nhà riêng của mình cho người khác đánh bạc phạm tội gì?

Sử dụng nhà riêng của mình cho người khác đánh bạc phạm tội gì? Chứng minh được chỉ ngồi xem đánh bạc chứ không đánh có bị phạt hay không? Để giúp quý khách hàng hiểu được các quy định về nội dung này, Luật Hòa Nhựt mời bạn theo dõi nội dung bài viết sau đây

1. Cho mượn nhà để đánh bạc bị xử phạt hành chính như thế nào?

Việc cho mượn nhà để đánh bạc trái phép là một hành vi vi phạm pháp luật mà chúng ta không nên coi nhẹ. Hậu quả của việc này có thể đối mặt với các hình thức xử phạt khác nhau tùy thuộc vào mức độ vi phạm và quy định của pháp luật. Cụ thể, theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP, người có hành vi cho phép người khác sử dụng nhà ở của mình để đánh bạc có thể bị xử phạt hành chính với mức phạt từ 5 triệu đến 10 triệu đồng.

Mức phạt này thường là 7,5 triệu đồng trong trường hợp thông thường. Tuy nhiên, nếu có những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng, mức phạt có thể giảm còn 5 triệu đồng hoặc tăng lên tối đa là 10 triệu đồng. Điều này tùy thuộc vào sự cân nhắc của cơ quan xử lý vụ việc và tính toán đầy đủ các tình tiết liên quan.

Ngoài mức phạt tiền, việc vi phạm hành chính trong trường hợp đánh bạc trái phép còn có thể đối mặt với hình thức xử phạt bổ sung, bao gồm tịch thu tang vật và phương tiện liên quan đến vi phạm. Điều này nhằm tăng cường sự nghiêm trọng của hình phạt và đảm bảo rằng việc thực hiện đánh bạc trái phép không được thực hiện một cách dễ dàng.

Tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm là một biện pháp mạnh mẽ để làm giảm sự hấp dẫn của hành vi đánh bạc trái phép. Bằng cách tước đoạt các tài sản hoặc phương tiện liên quan đến hoạt động đánh bạc trái phép, chính quyền có khả năng giảm bớt lợi ích kinh tế của những người vi phạm và ngăn chặn họ khỏi việc tiếp tục hành vi sai trái. Điều này cũng có thể làm giảm khả năng tái phạm và đóng góp vào việc bảo vệ cộng đồng khỏi những tác động tiêu cực của đánh bạc trái phép. Theo đó, việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm trong trường hợp đánh bạc trái phép không chỉ là biện pháp trừng phạt mà còn là cách để đảm bảo tính nghiêm trọng của hành vi này và đánh giá cao việc tuân thủ các quy định pháp luật về an ninh và trật tự xã hội.

Ngoài việc xử phạt hành chính, trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, người vi phạm có thể bị xử lý hình sự. Điều này áp dụng đặc biệt trong trường hợp tổ chức đánh bạc và có quy định cụ thể tại Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017. Do đó, việc cho mượn nhà để đánh bạc không chỉ gây ra mức phạt tài chính mà còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn về trách nhiệm hình sự.

 

2. Sử dụng nhà riêng của mình cho người khác đánh bạc phạm tội gì?

Việc cho mượn nhà để đánh bạc hoặc cho mượn địa điểm thuộc quyền quản lý, sử dụng, chiếm hữu hợp pháp của mình để cho người khác đánh bạc là một hành vi nghiêm trọng và bị xem xét theo quy định của Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Hành vi này được xem là vi phạm tội tổ chức đánh bạc khi thoả mãn ít nhất một trong hai điều kiện sau đây:

- Sử dụng địa điểm thuộc quyền quản lý hoặc sở hữu của mình để cho ít nhất 10 người tham gia đánh bạc cùng một lúc, với tổng số tiền hoặc giá trị hiện vật dùng để đánh bạc từ 5 triệu đồng trở lên.

- Cho mượn địa điểm thuộc quyền quản lý hoặc sở hữu của mình để có ít nhất 2 chiếu bạc cùng một lúc, với tổng số tiền hoặc giá trị hiện vật dùng để đánh bạc từ 5 triệu đồng trở lên.

Ngoài ra, nếu một người đã bị xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến hành vi cho mượn nhà để đánh bạc hoặc hành vi đánh bạc trái phép theo quy định tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự, hoặc đã bị kết án về tội tổ chức đánh bạc hoặc tội đánh bạc và án tích vẫn còn tồn tại, nếu tiếp tục vi phạm hành vi trên, họ sẽ phải đối mặt với hình phạt hình sự.

Tổ chức đánh bạc và hành vi liên quan đến nó đều được xem là một tội phạm nghiêm trọng, và việc áp dụng những hình phạt nghiêm khắc như đã quy định trong luật là để bảo vệ xã hội khỏi các hoạt động đánh bạc trái phép và tội phạm liên quan đến nó.

Từ căn cứ tại Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, suy ra, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc với hành vi sử dụng nhà, địa điểm do mình sở hữu, quản lý cho người khác đánh bạc như sau:

Khung hình phạt

Mức phạt

Trường hợp phạm tội

Khung cơ bản

Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng;

Hoặc phạt tù từ 01 năm - 05 năm;

Có cấu thành tội phạm cơ bản:

Sử dụng địa điểm thuộc quyền quản lý/hoặc sở hữu của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên cùng 1 lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng để đánh bạc trị giá 5 triệu đồng trở lên/hoặc cho 2 chiếu bạc trở lên trong cùng 1 lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng để đánh bạc trị giá 5 triệu đồng trở lên;

Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi đánh bạc trái phép tại Điều 321 Bộ luật Hình sự/hoặc đã bị kết án về tội tổ chức đánh bạc hoặc tội đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Khung tăng nặng trách nhiệm hình sự

Phạt tù từ 5 năm - 10 năm

Hành vi có tính chất chuyên nghiệp;

Hoặc thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội từ 50 triệu đồng trở lên;

Hoặc sử dụng mạng internet/hoặc mạng máy tính/hoặc mạng viễn thông/hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;

Hoặc thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm;

Hình phạt bổ sung

Phạt tiền từ 20 triệu - 100 triệu đồng;

Hoặc tịch thu một phần/hoặc toàn bộ tài sản;

Có thể áp dụng với tội phạm bị truy cứu ở mọi khung

 

 

3. Chứng minh được chỉ ngồi xem đánh bạc chứ không đánh có bị phạt hay không?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP về hành vi đánh bạc trái phép, có một loạt các hình thức và hành vi được xác định và quy định về mức phạt. Cụ thể:

- Hành vi đánh bạc trái phép:

Quy định này chỉ rõ các hình thức và hành vi bị coi là đánh bạc trái phép và áp dụng mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Đánh bạc trái phép bằng các hình thức cụ thể như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác, với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật;

+ Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;

+ Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác.

Tuy nhiên, quy định của Nghị định 144/2021/NĐ-CP chỉ áp dụng cho người tham gia trực tiếp vào hành vi đánh bạc.

Trong khi đó, theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 120 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, quy định về tội đánh bạc có tính chất khác biệt. Theo đó:

- Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đang bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù đến 03 năm.

Dựa trên những quy định nêu trên, có thể kết luận rằng người chỉ ngồi xem đánh bạc mà không tham gia vào hành vi đánh bạc không sẽ không bị xử phạt theo quy định hành chính hoặc hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp bị cơ quan công an bắt giữ và đối diện với nghi ngờ về việc tham gia vào đánh bạc trái phép, người xem đánh bạc sẽ phải có khả năng chứng minh một cách rõ ràng và hợp pháp rằng họ chỉ là người quan sát và không tham gia vào hành vi đánh bạc.

Việc chứng minh này có thể bao gồm cung cấp bằng chứng như tài liệu, hồ sơ, hay lời khai chứng minh sự vô tội của họ. Tuy nhiên, việc này cũng có thể đòi hỏi sự hỗ trợ từ luật sư hoặc chuyên gia pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Mục tiêu chính là đảm bảo rằng người vô tội không bị xử lý sai trái và chỉ có những người thực sự tham gia vào hành vi đánh bạc trái phép mới phải chịu hình phạt theo quy định pháp luật.

khi có thắc mắc về quy định pháp luật, quý khách có thể liên hệ ngay đến hotline 1900.868644 hoặc gửi thư tư vấn đến địa chỉ email: luathoanhut.vn@gmail.com