Thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tạm giam là biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn những hành động của bị can, bị cáo có thể gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hoặc có thể dẫn đến việc tiếp tục vi phạm hoặc đảm bảo thi hành án. Vậy thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bao lâu? Hãy cùng Luật Hòa Nhựt tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

1. Khái quát về tạm giam trong tố tụng hình sự

Biện pháp tạm giam được thiết lập trong quá trình xử lý vụ án hình sự và áp dụng đối với bị can, bị cáo liên quan đến tội danh nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, cũng như tội ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật. Mục tiêu của biện pháp này là ngăn chặn những hành động của bị can, bị cáo có thể gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hoặc có thể dẫn đến việc tiếp tục vi phạm hoặc đảm bảo thi hành án.

Hậu quả pháp lý của biện pháp tạm giam là rất nghiêm trọng, khiến người bị áp dụng bị cô lập khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định và họ phải chấp nhận sự hạn chế một số quyền lợi công dân.

Biện pháp tạm giam chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo và có hai trường hợp cụ thể. Trường hợp đầu tiên là khi bị can, bị cáo đối mặt với tội danh đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Trường hợp thứ hai là khi bị can, bị cáo liên quan đến tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng, nhưng có căn cứ xác định rằng họ thuộc một trong các trường hợp sau: đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác; không có nơi cư trú rõ ràng hoặc lý lịch không xác định được; bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; thực hiện hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù những người liên quan đến vụ án. Ngoài ra, biện pháp tạm giam cũng có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo liên quan đến tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù lên đến 2 năm, nếu họ tiếp tục vi phạm hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã (khoản 2, 3 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự). Khi vi phạm những điều khoản này, bị can, bị cáo sẽ phải đối mặt với quyết định áp dụng biện pháp tạm giam.

 

2. Thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bao lâu?

Dựa theo Điều 173 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn tạm giam đối với bị can để điều tra được quy định như sau:

- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng: Không vượt quá 02 tháng và có thể kéo dài tối đa thêm một lần, không quá 01 tháng. Tổng cộng, thời hạn tạm giam cho điều tra tội phạm ít nghiêm trọng là 3 tháng (2 tháng + 1 tháng).

- Đối với tội phạm nghiêm trọng: Không quá 3 tháng và có thể gia hạn thêm một lần, không quá 02 tháng. Trong trường hợp đã hết thời gian gia hạn lần đầu mà cơ quan điều tra vẫn chưa kết thúc điều tra và không có lý do để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam thêm một lần, nhưng thời gian không vượt quá 1 tháng. Tổng cộng, thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội nghiêm trọng, bao gồm cả gia hạn tối đa, là 6 tháng.

- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng: Thời hạn tạm giam không vượt quá 04 tháng và có thể gia hạn một lần, nhưng không quá 03 tháng. Trong trường hợp đã hết thời gian gia hạn lần đầu mà việc điều tra vẫn chưa kết thúc, và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam thêm một lần, nhưng thời hạn không vượt quá 2 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội rất nghiêm trọng, kể cả gia hạn tối đa, là 9 tháng.

- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Thời hạn tạm giam không vượt quá 04 tháng và có thể gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp và đã hết thời gian gia hạn lần thứ hai mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba, nhưng thời hạn không vượt quá 4 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội rất nghiêm trọng, kể cả gia hạn tối đa, là 16 tháng.

Riêng đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, do tính chất đặc biệt và xuất phát từ yêu cầu điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn được quyền gia hạn thêm một lần, với thời hạn không quá 4 tháng. Như vậy, thời hạn tối đa để tạm giam đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia là 20 tháng.

Như vậy, để xác định thời gian tạm giam cho tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên các quy định nêu trên, cần xác định rõ đối tượng thuộc khung hình phạt nào để đặt ra thời hạn tạm giam tối đa, bao gồm cả thời gian gia hạn để thực hiện quá trình điều tra. Cụ thể:

+ Khung 1 của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, thời hạn tối đa tạm giam là 3 tháng (2 tháng + 1 tháng gia hạn).

+ Khung 2 của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, thời hạn tối đa tạm giam là 6 tháng (tính cả thời gian gia hạn).

+ Khung 3 của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, thời hạn tối đa tạm giam là 9 tháng (tính cả thời gian gia hạn).

+ Khung 4 của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, thời hạn tối đa tạm giam là 16 tháng (tính cả thời gian gia hạn).

3. Kiến nghị hoàn thiện về biện pháp tạm giam trong Tố tụng Hình sự

Thứ nhất, có thể thực hiện nghiên cứu nhằm hạn chế việc tạm giam đối với những đối tượng liên quan đến một số loại tội phạm cụ thể, như các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về môi trường, và một số tội phạm thuộc các nhóm xâm phạm sở hữu (ngoại trừ các tội như cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp tài sản, v.v.). Ngoài ra, cũng cần tăng cường hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như bảo lãnh và cấm rời khỏi nơi cư trú, thay vì tăng cường áp dụng biện pháp tạm giam điều tra.

Một phương diện khác là việc quy định tính độc lập và sắp xếp Bảo Phòng Nguy cơ Tạm Giam (BPNCTG) trong mối liên kết với các biện pháp ngăn chặn khác. Hiện nay, Bộ Luật Tư pháp Việt Nam đang sắp xếp BPNCTG trước các biện pháp bảo lãnh, đặt tiền đảm bảo, cấm rời khỏi nơi cư trú, và tạm hoãn xuất cảnh. Đồng thời, cách quy định về cơ sở áp dụng các biện pháp ngăn chặn này đang tiến theo hướng chỉ khi các cơ sở áp dụng BPNCTG không thỏa mãn hoặc không còn cần thiết, thì mới xem xét áp dụng các biện pháp ngăn chặn không liên quan đến tự do. Tuy nhiên, cách quy định này vẫn chưa đảm bảo tính khách quan và độc lập giữa các biện pháp ngăn chặn. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn không tước tự do của người bị cáo buộc không nên được xem là thay thế BPNCTG mà phải căn cứ vào các lập luận cụ thể, phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội.

Do đó, cần điều chỉnh lại thứ tự của các biện pháp ngăn chặn, tăng dần về mức độ nghiêm trọng và ảnh hưởng đến quyền tự do của người bị áp dụng. Ngoài ra, cần quy định rõ về bảo lãnh và đặt tiền đảm bảo như hai biện pháp độc lập so với BPNCTG, để có thể áp dụng chúng khi có đủ điều kiện hoặc thay thế cho các biện pháp ngăn chặn tạm giam khi không còn căn cứ để tạm giam.

Thứ ba, đối với việc mở rộng thẩm quyền áp dụng Bảo Phòng Nguy Cơ Tạm Giam (BPNCTG) cho Thẩm phán nghiên cứu và xét xử vụ án, theo quy định trong Bộ Luật Tư pháp Hình sự (BLTTHS) của một số quốc gia trên thế giới, Thẩm phán được ủy quyền thẩm quyền áp dụng BPNCTG. Tác giả cho rằng, BLTTHS Việt Nam có thể học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia khác để mở rộng thẩm quyền áp dụng BPNCTG theo hướng quy định rõ ràng rằng Thẩm phán, khi được phân công nghiên cứu và xét xử vụ án, cũng có thẩm quyền áp dụng BPNCTG. Điều này nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Thẩm phán, đồng thời bảo đảm tính kịp thời khi thực hiện các biện pháp ngăn chặn.

Thứ tư, cần có văn bản hướng dẫn chi tiết về các quy định tại điểm c và điểm d, khoản 2 Điều 119 của BLTTHS, đặc biệt là khi có căn cứ xác định rằng người đó thuộc một trong các trường hợp "c) có dấu hiệu bỏ trốn" và "d) có dấu hiệu tiếp tục phạm tội." Hướng dẫn này cần tập trung vào việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khi các dấu hiệu này đòi hỏi sự đánh giá và phân tích một cách khách quan và toàn diện. Đánh giá này nên dựa trên các yếu tố như tình trạng nhân thân, điều kiện kinh tế, và tình trạng sức khỏe của người phạm tội, để xác định xem có dấu hiệu bỏ trốn hay tiếp tục phạm tội nằm trong ý thức chủ quan của người phạm tội.

Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.868644 hoặc email: luathoanhut.vn@gmail.com. Xin trân trọng cảm ơn!