Giải đáp nhiều nội dung về chính sách hỗ trợ an sinh xã hội

Dưới đây là bài viết liên quan đến nội dung Giải đáp nhiều nội dung về chính sách hỗ trợ an sinh xã hội. Mời quý bạn đọc tham khảo để biết thêm thông tin hữu ích.

1. Bảo hiểm xã hội giải đáp nội dung về chính sách an sinh xã hội

Về chính sách giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Bảo hiểm Xã hội (BHXH) Việt Nam thông báo rằng Nghị quyết số 68/NQ-CP sẽ có hiệu lực từ ngày 1-7-2021. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp, đơn vị mới thành lập sau ngày này vẫn sẽ được hưởng chính sách này. Người sử dụng lao động sẽ áp dụng mức đóng bằng 0% quỹ tiền lương làm cơ sở để đóng BHXH vào Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong 12 tháng (từ ngày 1-7-2021 đến hết ngày 30-6-2022) đối với nhóm lao động thuộc chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Các đơn vị sẽ được giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không cần quyết toán với cơ quan BHXH. Số tiền giảm được từ việc đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sẽ được hỗ trợ đầy đủ cho người lao động, nhằm hỗ trợ phòng, chống dịch Covid-19.

Đối với chính sách tạm dừng đóng vào Quỹ Hưu trí và tử tuất, để hưởng chính sách này, người sử dụng lao động (đơn vị, doanh nghiệp) cần phải đóng đủ BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động đến tháng 4-2021 và đồng thời giảm 15% số lượng lao động so với tháng 4-2021 khi lập hồ sơ đề nghị tạm dừng đóng BHXH vào Quỹ Hưu trí và tử tuất. Thời gian tạm dừng đóng BHXH vào Quỹ Hưu trí và tử tuất không được vượt quá 12 tháng. Các đơn vị nếu còn nợ tiền BHXH đến tháng 4-2021 sẽ không được hưởng chính sách hỗ trợ này. Đối với những người lao động làm việc tại đơn vị và được tạm dừng đóng vào Quỹ Hưu trí và tử tuất do ốm đau, nghỉ thai sản, chế độ quy định vẫn được giải quyết. Về chính sách hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm, BHXH Việt Nam cho biết, người sử dụng lao động sẽ được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp khi đã đóng đủ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong ít nhất 12 tháng, tính đến thời điểm yêu cầu hỗ trợ.

Để đơn giản hóa việc nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ trong bối cảnh dịch Covid-19, người lao động và đơn vị sử dụng lao động có thể thực hiện nộp hồ sơ trực tuyến qua Cổng dịch vụ công quốc gia. Hồ sơ sẽ được chuyển đến cơ quan BHXH để xử lý (đối với dịch vụ "Tạm dừng đóng vào Quỹ Hưu trí và tử tuất") và được xác nhận đối với các dịch vụ công khác thông qua Cổng dịch vụ công BHXH Việt Nam hoặc phần mềm kê khai BHXH điện tử (I-VAN) của nhà cung cấp dịch vụ.

2. Nỗ lực hoàn thiện các chính sách an sinh xã hội

Chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội với mục tiêu phát triển con người là quan điểm được Đảng duy trì qua các giai đoạn cách mạng. Chú trọng từ quan điểm phát triển xã hội đơn chiều, hiện nay, quan điểm đã tiến triển đến việc phát triển xã hội bền vững trên ba nội dung cơ bản: (i) nâng cao năng lực của con người thông qua tăng cường phúc lợi toàn dân; (ii) cải thiện môi trường hoạt động của con người thông qua phát triển các chính sách về lao động, việc làm, y tế, giáo dục, doanh nghiệp, hạ tầng cơ sở, v.v.; (iii) bảo đảm an sinh xã hội thông qua các chính sách hỗ trợ người yếu thế tham gia thị trường lao động, tăng cường Bảo hiểm Xã hội (BHXH), và giảm nghèo.

Từ nhận thức đến hành động, các chính sách an sinh xã hội ngày càng được hoàn thiện. Chính sách BHXH được điều chỉnh, sửa đổi để phản ánh đúng với hướng xã hội chủ nghĩa và thích ứng với nền kinh tế thị trường. Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 đã đảm bảo quyền tham gia và hưởng các chế độ BHXH cho người lao động. Ngày 23-5-2018, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá XII) đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, với mục tiêu mở rộng diện bao phủ, hướng tới BHXH toàn dân. Luật Việc làm năm 2013 đã mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đến người lao động làm việc theo hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về giảm nghèo đã được Chính phủ đưa ra khá đồng bộ và toàn diện, từng bước mở rộng đối tượng để hỗ trợ người nghèo thoát nghèo bền vững. Chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều được áp dụng để đo lường tình trạng nghèo của hộ gia đình, bao gồm yếu tố thu nhập, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, và việc làm. Cơ chế, chính sách giảm nghèo ngày càng thay đổi với quan điểm mới, tư duy hiện đại, tăng cường sự tự chủ và phân cấp cho địa phương, đồng thời tăng cường tính minh bạch trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch.

Hiện nay, chính sách trợ giúp xã hội đã mở rộng diện bao phủ đa dạng các đối tượng ở mọi lứa tuổi và đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ, tạo nên một mạng lưới an sinh xã hội rộng lớn và phức tạp. Chính sách bảo đảm an sinh xã hội đã khẳng định được vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn trong cuộc sống, bao gồm cả phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro kinh tế, xã hội, môi trường, và các rủi ro đột xuất khó lường trước.

3. Đổi mới chính sách an sinh xã hội theo hướng toàn diện, hiệu quả, bền vững

Bước vào thời kỳ mới, hệ thống chính sách An sinh xã hội (ASXH) sẽ đối mặt với nhiều thách thức lớn do sự phát triển, toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, và di dân tự do đồng đội nhiều vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề nhà ở, ô nhiễm môi trường, quá tải hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, rủi ro và xung đột xã hội. Các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, đã thay đổi cách sản xuất, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, ảnh hưởng đến thế giới việc làm. Ngoài ra, vấn đề già hoá dân số nhanh chóng, sự gia tăng tầng lớp trung lưu, và tỷ trọng việc làm trong khu vực phi chính thức cao đang đặt ra nhiều thách thức đối với chính sách lao động, việc làm, và phát triển nguồn nhân lực.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, với tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng của Chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng toàn diện, hiệu quả, và bền vững. Trong bối cảnh này, CSXH được coi là chính sách cho con người, vì con người, với vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu là bảo đảm quyền lợi của con người, đặc biệt là nhóm đối tượng yếu thế và dễ bị tổn thương.

Một trong những tôn chỉ hành động quan trọng là không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để theo đuổi tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Chính sách ASXH phải đảm bảo phúc lợi xã hội cho Nhân dân và tạo điều kiện cho họ tham gia và thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới. Quá trình xây dựng và thực hiện chính sách ASXH và CSXH cần đặt trong ngữ cảnh tổng thể của quản lý phát triển xã hội bền vững, giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, đảm bảo trật tự và an toàn xã hội.

Nhà nước cần đầu tư cho việc thực hiện mục tiêu của các chính sách ASXH như một cách đầu tư cho phát triển. Điều này đòi hỏi huy động và phân bổ nguồn lực phù hợp với khả năng nền kinh tế và yêu cầu của việc thực hiện các mục tiêu này. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống CSXH cần phải là toàn diện, hiện đại, bền vững, với con người làm trung tâm, và được coi là chủ thể, mục tiêu, động lực, và nguồn lực để phát triển. Đồng thời, cần hỗ trợ người dân trong việc ứng phó linh hoạt và hiệu quả với các rủi ro trong cuộc sống.

Nếu có bất cứ vấn đề pháp lý nào cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ tới bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số điện thoại: 1900.868644 hoặc gửi yêu cầu qua địa chỉ email: luathoanhut.vn@gmail.com. Trân trọng!