1. Nguồn án lệ và khái quát nội dung Án lệ số 68/2023/AL
Nguồn Án lệ số 68/2023/AL
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2019/DS-GĐT ngày 18/3/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra phán quyết trong vụ án dân sự "Tranh chấp thừa kế, đòi công sức đóng góp nuôi dưỡng, trông nom, bảo quản nhà, đất và đòi nhà, đất." Vụ án này có sự tranh chấp giữa bà Nguyễn Túy H (nguyên đơn) và bà Lý Lan H1 (bị đơn), cùng với sự liên quan của 06 người khác về quyền lợi và nghĩa vụ.
Tình huống án lệ:
Người để lại di sản bao gồm quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất trước ngày có hiệu lực của Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014. Tranh chấp về chia thừa kế tài sản được giải quyết theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014.
Giải pháp pháp lý:
- Trong trường hợp này, Tòa án đã áp dụng Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014 để giải quyết tranh chấp. Nếu có người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người đó sẽ được nhận di sản dưới dạng nhà ở khi đáp ứng các điều kiện quy định trong Luật Nhà ở năm 2014, và di sản có thể được phân chia dưới dạng hiện vật.
2. Nội dung vụ án
Vụ án chia thừa kế liên quan đến bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1, có nguồn gốc từ gia đình cụ Lý Vĩnh K và cụ Nguyễn Thị B. Bà Nguyễn Túy H là con chung của cả hai cụ này. Sau khi cụ K và cụ B không còn chung sống, cụ K tái hôn với cụ Nguyễn Ngọc H2, có một con chung là bà Lý Lan H1.
Tài sản thừa kế là ngôi nhà 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, mà cụ K, cụ H2 để lại. Bản án dân sự phúc thẩm số 6/DS-PT ngày 26/6/1981 đã xác định khối tài sản chung, nhưng chưa chia quyền sử dụng đất thổ cư. Bà Nguyễn Túy H yêu cầu chia thừa kế và nhận diện tích đất là 120m2, dựa trên bản vẽ hiện trạng căn nhà và kiểm tra của Ủy ban nhân dân quận P.
Bà Lý Lan H1 đồng ý với yêu cầu này, ủy quyền cho bà Huỳnh Thị Kim L đại diện. Cả hai bên đều đồng thuận với việc chia thừa kế diện tích đất 120m2, giữa hẻm 151B đường N và ranh đất nhà 151C đường N của ông Trần Quốc H3.
Vụ án liên quan đến yêu cầu đòi công sức, đóng góp nuôi dưỡng, trông nom bảo quản nhà đất có nguồn gốc từ đơn khởi kiện ngày 29/01/2010 của ông Nguyễn Quang D, trong đó ông D đại diện cho bà Trần Thị Thu H4. Tài sản thừa kế là ngôi nhà 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc sở hữu của cụ Nguyễn Ngọc H2 và cụ Lý Vĩnh K.
Cụ H2 là dì ruột của ông D, và ông D đã chăm sóc, nuôi dưỡng và lo ma chay cho cụ H2 trong thời gian dài. Cụ H2 đã ủy quyền cho ông D quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm trông coi nhà đất theo Hợp đồng ủy quyền. Sau khi cụ H2 qua đời, ông D phát hiện bản án niêm yết Văn bản số 324/CC7 của Phòng Công chứng K, Thành phố Hồ Chí Minh, nêu rõ yêu cầu nhận di sản của bà Lý Lan H1, con của cụ H2 và cụ K.
Ông D yêu cầu bà Lý Lan H1 chia cho mình 180m2 đất, là phần công sức ông đã đóng góp trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc cụ H2 và trông nom quản lý nhà đất suốt gần 30 năm. Bà H1, đang cư trú tại Hoa Kỳ, không đồng ý và không thảo luận với ông D về vấn đề này.
Trong quá trình tố tụng, bà H1 không đồng ý với yêu cầu của ông D và yêu cầu trả lại toàn bộ nhà đất cho bà H1 ngay khi bản án có hiệu lực. Bà H1 đã khai nhận di sản và chi trả một phần chi phí mai táng cho cụ H2.
Các bên liên quan như bà Nguyễn Thị Hương L1, ông Nguyễn Quang D1, bà Huỳnh Thị Bích N đều đồng thuận với lời khai và yêu cầu của ông Nguyễn Quang D. Quyết định nhập vụ án đã thụ lý và quyết định nhập vụ án dân sự sơ thẩm.
Trong Bản án dân sự sơ thẩm số 409/2015/DS-ST ngày 05/5/2015, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là bà Nguyễn Túy H và ông Nguyễn Quang D.
Đối với bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1, Tòa án xác định di sản thừa kế từ cụ Lý Vĩnh K và cụ Nguyễn Ngọc H2 là quyền sử dụng đất 698,14m2 tại số 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Túy H được chia và nhận diện tích đất 120m2, có quyền liên hệ các cơ quan chức năng để thực hiện thủ tục tách thửa đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với ông Nguyễn Quang D, Tòa án xác định ông có công sức đóng góp đối với việc nuôi dưỡng, chăm sóc cụ Nguyễn Ngọc H2 và quản lý nhà đất tại 151B đường N. Ông D được chia 120m2 đất và nhận toàn bộ hiện vật đối với phần thừa kế của bà Lý Lan H1, bao gồm diện tích đất là 458,14m2 và phần xây dựng. Ông D có trách nhiệm thanh toán cho bà Lý Lan H1 toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây dựng nhà.
Bản án cũng quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 13/5/2015, bà Trần Ngọc Kim C, đại diện cho bị đơn kháng cáo, không đồng ý chia cho ông D 120m2 đất và đề xuất giao toàn bộ hiện vật cho bà H1.
Ngày 15/5/2015, bà Trần Thị Thu H4, đại diện cho ông D, kháng cáo và yêu cầu định giá lại tài sản tranh chấp.
Ngày 20/5/2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm trước đó với lý do cho rằng quyết định tuyên ông D nhận toàn bộ hiện vật là sai và phần quyết định ông D thanh toán cho bà H1 23.476.516.675 đồng là không đúng.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2016/DS-PT ngày 21/4/2016, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và kháng cáo của ông D, không chấp nhận kháng cáo của bà H1, và sửa bản án sơ thẩm.
Tòa án xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Lý Vĩnh K và cụ Nguyễn Ngọc H2 là bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1. Di sản thừa kế của cụ K và cụ H2 bao gồm quyền sử dụng đất 698,33m2 và giá trị của căn nhà 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Quang D được xác định có công sức đóng góp và được chia 120m2 đất tại vị trí đặc địa.
Tòa án đã tuyên xử như sau:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Túy H: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1 (do bà Huỳnh Thị Kim L đại diện theo ủy quyền). Bà Nguyễn Túy H được chia và nhận hiện vật diện tích đất 120m2, chiều ngang 7m mặt tiền hẻm 151B đường N, Phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Bản vẽ hiện trạng đã được kiểm tra và xác nhận bởi Ủy ban nhân dân quận P ngày 17/12/2015. Bà Nguyễn Túy H được quyền liên hệ các cơ quan chức năng để thực hiện thủ tục tách thửa đất và đăng ký để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
- Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Quang D: Ông Nguyễn Quang D được chia công sức đóng góp, bảo quản, giữ gìn khối tài sản tương ứng bằng 120m2 đất, có hình chữ L, vị trí và kích thước chi tiết theo bản vẽ hiện trạng đã được kiểm tra và xác nhận bởi Ủy ban nhân dân quận P ngày 17/12/2015. Ông Nguyễn Quang D được nhận toàn bộ hiện vật đối với phần thừa kế của bà Lý Lan H1, bao gồm diện tích đất 458,33m2 và phần xây dựng nhà, vị trí và kích thước chi tiết theo bản vẽ hiện trạng đã được kiểm tra và xác nhận bởi Ủy ban nhân dân quận P ngày 17/12/2015. Ông D phải thanh toán cho bà Lý Lan H1 toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây dựng nhà tại số 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, với số tiền là 15.822.085.210 đồng.
- Quyết định về án phí.
Sau phiên tòa xét xử phúc thẩm, bà Lý Lan H1 đã đề nghị giám đốc thẩm và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm thì đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kháng nghị về phần tố tụng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Nhận định và quyết định của Tòa án trong án lệ
3.1. Nhận định
- Tại Tòa án, bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1 đã thống nhất chia nhau 120m2 đất trong tổng diện tích 698,33m2 đất thừa kế từ cụ Lý Vĩnh K và cụ Nguyễn Ngọc H2. Cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều ghi nhận sự tự nguyện này của các bên, cho rằng nó tuân theo quy định pháp luật.
- Liên quan đến việc định giá tài sản, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện định giá lại nhà, đất tại 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 01/02/2016. Tuy nhiên, việc này đã không được thông báo cho bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1, và bị coi là không tuân theo quy định của pháp luật, đặc biệt là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kháng nghị và không đề nghị xem xét vấn đề định giá tài sản này, nên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm không xem xét vấn đề này.
- Về việc tính công sức cho ông Nguyễn Quang D: Năm 1978, bà Lý Lan H1 xuất cảnh sang Hoa Kỳ, còn cụ Nguyễn Ngọc H2 sống tại nhà số 151B đường N, phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1982, ông D (cháu ruột cụ H2) đã ở cùng cụ H2 và chuyển hộ khẩu về ở địa chỉ này từ năm 1985. Năm 1998, cụ H2 xuất cảnh và ủy quyền cho ông D quản lý, sử dụng căn nhà. Năm 2007, cụ H2 trở về Việt Nam, ông D cam kết bảo lãnh cho cụ H2. Ông D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cụ H2 đến khi cụ H2 chết, cũng tổ chức lo toàn bộ ma chay.
- Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa làm rõ về công sức bảo quản tài sản, khoản tiền chăm sóc, nuôi dưỡng và mai táng khi cụ H2 chết. Cũng chưa xác định rõ thu nhập từ việc kinh doanh quán cà phê của ông D để có cơ sở xác định công sức của ông D cho việc chia công sức bằng hiện vật là 120m2 đất trong tổng diện tích 698,33m2 đất cho ông D. Việc này được coi là không có cơ sở và có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Lý Lan H1.
- Đối với việc giao hiện vật là phần thừa kế của bà Lý Lan H1 cho ông Nguyễn Quang D: Theo quy định Điều 186 Luật Đất đai năm 2013, người nhận thừa kế không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng được quyền chuyển nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định bà H1 không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao toàn bộ hiện vật (nhà, đất) cho ông D, và ông D thanh toán cho bà H1 giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây dựng nhà.
- Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm dựa trên Luật Nhà ở năm 2014 và chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hủy một phần bản án dân sự phúc thẩm và một phần bản án dân sự sơ thẩm, về chia công sức đóng góp nuôi dưỡng, trông nom, bảo quản nhà đất và giao hiện vật. Đề xuất xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
3.2. Quyết định của Tòa
- Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 18/10/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Hủy một phần Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2016/DS-PT ngày 21/4/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 409/2015/DS-ST ngày 05/5/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữa bà Nguyễn Túy H và bà Lý Lan H1, cũng như những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về chia công sức đóng góp, bảo quản giữ gìn khối tài sản tương ứng 120m2 đất cho ông Nguyễn Quang D và việc ông Nguyễn Quang D được nhận toàn bộ hiện vật của bà Lý Lan H1.
- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Liên hệ với Chúng tôi qua 1900.868644 hoặc [email protected]