1. Thay đổi cán bộ điều tra trong vụ án hình sự khi nào?
Căn cứ dựa theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về thay đổi cán bộ điều tra
Cán bộ điều tra phải trừ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Các trường hợp được quy định tại Điều 49 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
- Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phấn, hội thẩm, thẩm tra viên hoặc thư ký tòa án
Việc thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra do Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết định. Điều tra viên bị thay đổi là thủ trưởng cơ quan điều tra thì việc điều tra vụ án do cơ quan điều tra viên cấp trên sẽ có trách nhiệm là trực tiếp tiến hành
Như vậy thì cán bộ điều tra phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc là bị thay đổi nếu thuộc vào một trong các trường hợp sau:
- Trường hợp quy định tại Điều 49 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
+ Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo: Nếu cán bộ điều tra đồng thời là bị hại, đương sự, hoặc là người đại diện, người thân thích của bên liên quan, họ có thể phải từ chối tham gia để đảm bảo tính công bằng và không thiên vị.
+ Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó: Nếu cán bộ điều tra đã tham gia với các tư cách trên, có thể xảy ra xung đột quyền lợi và cần từ chối tham gia để đảm bảo tính công bằng.
+ Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ: Nếu có bất kỳ căn cứ rõ ràng nào khác để nghi ngờ tính vô tư của cán bộ điều tra, họ có thể phải từ chối tham gia để tránh ảnh hưởng đến quá trình tố tụng.
- Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án: Nếu cán bộ điều tra đã có quá trình tham gia tố tụng với các tư cách trên, có thể xem xét việc thay đổi để đảm bảo sự độc lập và khách quan của họ trong quá trình điều tra.
2. Những quy định pháp luật về hỏi cung bị can
Căn cứ dựa theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định về hỏi cung bị can. Cụ thể thì được thể hiện như sau:
Thông báo và thời gian hỏi cung: Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can. Kiểm sát viên có thể tham gia hỏi cung khi thấy cần thiết.
Giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can: Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Hỏi cung riêng lẻ và không vào ban đêm: Trong trường hợp có nhiều bị can, cần hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ khi không thể trì hoãn được và phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Kiểm sát viên hỏi cung bị can: Kiểm sát viên thực hiện hỏi cung bị can trong những trường hợp như bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra, hoặc khi có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm hình sự khi bức cung, dùng nhục hình: Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên đều phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ thực hiện hành vi bức cung hoặc sử dụng nhục hình đối với bị can. Bức cung đối với bị can là hành vi áp đặt áp lực, đe dọa, hay thậm chí là sử dụng bạo lực để đạt được mục đích nào đó trong quá trình điều tra. Sử dụng nhục hình là hành vi gây thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm, và quyền lợi của bị can thông qua việc làm ảnh hưởng đến phẩm chất của họ, đôi khi thông qua việc công khai hoặc làm nhục bị can. Trách nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi này được xác định và truy cứu theo quy định của Bộ luật Hình sự. Điều này có thể bao gồm các hình phạt như tù chung thân, tù nặng, hoặc các hình phạt khác tùy thuộc vào nghiêm trọng của hành vi.
Ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh: Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc trụ sở cơ quan điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Hỏi cung bị can tại địa điểm khác cũng cần được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc trụ sở cơ quan điều tra, quy định đòi hỏi việc này phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Điều này giúp ghi lại chính xác cuộc hỏi cung và bảo đảm tính trung thực. Nếu hỏi cung bị can tại địa điểm khác ngoài cơ sở giam giữ hoặc trụ sở cơ quan điều tra, cũng yêu cầu phải có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Quy định này có thể theo yêu cầu của bị can hoặc theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh nhằm đảm bảo sự chính xác và không chệch lệch trong ghi chép cuộc hỏi cung. Đồng thời, đây cũng là một biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của bị can, giúp tránh những tranh cãi về nội dung của cuộc hỏi cung sau này. Quy định về ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là một trong những biện pháp quan trọng nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong hệ thống tư pháp, đồng thời bảo vệ quyền của những người tham gia vào quá trình tố tụng.
Những quy định này nhằm đảm bảo tính công bằng, quyền lợi và nghĩa vụ của bị can trong quá trình điều tra và tố tụng.
3. Quy định về không được tiết lộ bí mật điều tra
Căn cứ dựa theo quy định tại Điều 177 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định về việc không được tiết lộ bí mật điều tra, theo đó thì việc không được tiết lộ bí mật điều tra được quy định như sau:
Quy định về việc không được tiết lộ bí mật điều tra là một biện pháp quan trọng để bảo vệ tính công bằng và hiệu quả của quá trình điều tra và tố tụng. Dưới đây là một số điểm quan trọng liên quan đến quy định này:
Yêu cầu giữ bí mật điều tra: Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có trách nhiệm yêu cầu người tham gia tố tụng không được tiết lộ bí mật điều tra khi có trường hợp cần thiết để bảo vệ quá trình điều tra.
Ghi vào biên bản: Yêu cầu này phải được ghi vào biên bản để có bằng chứng về sự thông báo và thoả thuận giữa các bên liên quan.
Hậu quả của việc tiết lộ bí mật điều tra: Nếu Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, hoặc người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra, hậu quả phụ thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm. Xử lý kỷ luật có thể áp dụng cho các trường hợp vi phạm nội quy nghề nghiệp. Xử phạt vi phạm hành chính có thể áp dụng theo quy định của pháp luật về xử phạt hành chính. Truy cứu trách nhiệm hình sự có thể áp dụng nếu việc tiết lộ bí mật điều tra gây hậu quả nghiêm trọng và vi phạm các quy định hình sự.
Quy định này nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin nhạy cảm trong quá trình điều tra và tố tụng, đồng thời xác định rõ hậu quả cho những hành vi vi phạm quy tắc này để đảm bảo tuân thủ và trách nhiệm của tất cả các bên liên quan.
Mọi vướng mắc vui lòng liên hệ 1900.868644 hoặc [email protected]