1. Quyền sử dụng đất của cơ sở tôn giáo
Cơ sở tôn giáo là một tổ chức hoặc địa điểm có liên quan đến hoạt động tôn giáo. Trong ngữ cảnh pháp luật và quản lý đất đai, cơ sở tôn giáo thường đề cập đến các tổ chức hay địa điểm thuộc lĩnh vực tôn giáo như chùa, nhà thờ, tu viện, thánh đường, niệm phật đường, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, và các cơ sở khác liên quan đến hoạt động tôn giáo.
Luật Đất đai cũng xác định cơ sở tôn giáo như là một trong những đối tượng được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Các quy định này giúp quyết định và quản lý việc sử dụng đất đai cho các hoạt động liên quan đến tôn giáo, nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng, và tuân thủ pháp luật trong việc quản lý nguồn đất của cộng đồng tôn giáo.
TheoLuật đất đai năm 2013, người sử dụng đất bao gồm nhiều đối tượng, trong đó cơ sở tôn giáo được xác định là một trong những đối tượng này. Cơ sở tôn giáo bao gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo, theo khoản 4 Điều 5 của Luật đất đai.
Khoản 1 Điều 159 của Luật đất đai quy định rõ: “Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động”.
Đất cơ sở tôn giáo được định nghĩa là đất thuộc các loại như chùa, nhà thờ, thánh đường, và các cơ sở khác của tôn giáo, có điều kiện rằng đất đó đang được sử dụng cho mục đích xây dựng các công trình tôn giáo và phải được tổ chức tôn giáo đó được Nhà nước cho phép hoạt động. Nếu tổ chức tôn giáo không được Nhà nước cho phép hoạt động, đất của tổ chức đó không được công nhận là đất cơ sở tôn giáo.
Theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 10 của Luật đất đai, đất cơ sở tôn giáo thuộc nhóm đất phi nông nghiệp, có chủ yếu làm mặt bằng cho xây dựng công trình và không phải là đất dành cho mục đích nông nghiệp.
Theo quy định tại Luật đất đai năm 2013, cơ sở tôn giáo có nguồn gốc hình thành đất cơ sở tôn giáo thông qua các phương thức sau:
Thông qua việc Nhà nước giao quyền sử dụng đất (Nhà nước giao đất):
Nhà nước giao quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 7 Điều 3, đó là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Cơ sở tôn giáo khi được Nhà nước giao đất không phải trả tiền sử dụng đất theo khoản 5 Điều 54.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, và kế hoạch sử dụng đất để xác định mức đất giao cho các cơ sở tôn giáo.
Thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất:
Cơ sở tôn giáo được nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang được sử dụng ổn định.
Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi đáp ứng các điều kiện quy định, bao gồm việc được Nhà nước cho phép hoạt động, đất không có tranh chấp, không phải là đất nhận chuyển nhượng sau ngày 01 tháng 7 năm 2004.
Đối với các cơ sở tôn giáo có đất chưa được cấp Giấy chứng nhận, họ cần tự rà soát, kê khai việc sử dụng đất và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ kiểm tra thực tế, xác định ranh giới cụ thể của thửa đất và quyết định xử lý theo quy định.
Thông qua kết quả hòa giải; quyết định giải quyết tranh chấp đất đai; quyết định hoặc bản án của TAND; quyết định thi hành án:
Cơ sở tôn giáo có thể nhận quyền sử dụng đất thông qua kết quả hòa giải, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất đai, và quyết định hoặc bản án của Tòa án.
Các quyết định và bản án này sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quy định về việc giao đất cho cơ sở tôn giáo theo hình thức và thời hạn sử dụng đất tương ứng với mục đích sử dụng của cơ sở tôn giáo.
2. Quyền và nghĩa vụ của cơ sở tôn giáo
Tại Điều 181 của Luật Đất đai 2013, quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư sử dụng đất được xác định như sau:
Quyền và nghĩa vụ chung:
Cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư sử dụng đất chia sẻ quyền và nghĩa vụ chung theo những quy định tại Điều 166 và Điều 170 của Luật Đất đai 2013. Những điều này bao gồm các quy định về quản lý, sử dụng, chuyển đổi đất, và các nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Hạn chế về chuyển nhượng và sử dụng đất:
Quy định cụ thể tại Điều 181 rõ ràng khẳng định rằng cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư sử dụng đất không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất. Điều này áp đặt một hạn chế quan trọng đối với quyền sử dụng đất của họ và giữ cho đất được giữ lại và sử dụng chủ yếu cho mục đích tôn giáo và cộng đồng dân cư.
Cấm thế chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất:
Điều 181 cũng nghiêm cấm việc thế chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất của cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư. Điều này nhấn mạnh mục đích giữ cho quyền sử dụng đất không bị hạn chế bởi các giao dịch tài chính và bảo đảm rằng đất vẫn được sử dụng đúng mục đích của nó.
Với những quy định này, Luật Đất đai 2013 tạo ra một khung pháp lý để bảo vệ và quản lý quyền sử dụng đất của cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư, đồng thời đặt ra những hạn chế nhất định để đảm bảo sự ổn định và bền vững của việc sử dụng đất trong cộng đồng.
3. Tặng quyền sử dụng đất để làm chùa
Trong quy định tại điểm g, i khoản 1 Điều 169 của Luật Đất đai 2013, có xác lập các nguyên tắc quan trọng liên quan đến việc cấp quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, và cơ sở tôn giáo. Quy định này rõ ràng chỉ ra rằng cơ sở tôn giáo chỉ có thể nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước giao đất hoặc thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang được sử dụng ổn định.
Với việc cơ sở tôn giáo không thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức tặng cho, cá nhân và hộ gia đình, khi muốn hiến, tặng đất cho cơ sở tôn giáo, cần tuân theo các bước quy trình chi tiết. Điều này nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng, và tuân thủ pháp luật trong quá trình chuyển nhượng đất.
Bước đầu tiên là thực hiện thủ tục tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước, theo đó, hộ gia đình và cá nhân phải làm đơn trả lại đất và trả lại các chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong đơn, họ cần ghi rõ mục đích trả lại đất để hiến tặng cho cơ sở tôn giáo cụ thể nào.
Bước thứ hai là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định thu hồi đất dựa trên đơn trả lại đất của người sử dụng đất. Lưu ý rằng, trong trường hợp cá nhân và hộ gia đình, quyết định thu hồi đất sẽ được Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành.
Bước cuối cùng là khi Nhà nước đã có quyết định thu hồi đất, cơ sở tôn giáo cần chuẩn bị hồ sơ xin giao đất và nộp đến cơ quan có thẩm quyền, tức là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất theo quy định tại Điều 59 của Luật Đất đai 2013.
Quy trình này nhấn mạnh sự ràng buộc và tuân thủ các quy định pháp luật, tạo ra một cơ sở hợp pháp cho quá trình chuyển nhượng đất từ cá nhân, hộ gia đình sang cơ sở tôn giáo.
Trên đây là nội dung bài viết "Chuyển nhượng, tặng cho đất cơ sở tôn giáo", nội dung trên mang tính chất tham khảo nếu quý khách hàng có vướng mắc vui lòng liên hệ với chúng tôi qua hotline: 1900.868644 hoặc email: [email protected] để được hỗ trợ, tư vấn. Rất mong được hợp tác với quý khách hàng. Cảm ơn và trân trọng ./.