Bản án 50/2021/DS-ST ngày 22/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Qua bài viết chi tiết dưới đây, Luật Hòa Nhựt chúng tôi sẽ cung cấp cho quý khách nội dung chi tiết về Bản án 50/2021/DS-ST ngày 22/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng:

1. Nội dung vụ án dân sự trong Bản án 50/2021/DS-ST

1.1. Đương sự tham gia vụ án 

- Nguyên đơn: B. Trụ sở: Số 40-42-44 C, phường D, thành phố E, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà B1, chức vụ: Tổng Giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông B2, chức vụ: Giám đốc B - Chi nhánh Bạc Liêu;

Người được ủy quyền lại: Ông B3, chức vụ: Phó Phòng phụ trách Khách hàng cá nhân kiêm Phó Phòng phụ trách Khách hàng doanh nghiệp - B - Chi nhánh Bạc Liêu, địa chỉ: Số 466, G, Khóm 1, Phường 7, thành phố H, tỉnh Bạc Liêu (Có đơn xin vắng mặt đề ngày 21/6/2021).

- Bị đơn: Bà I và anh I1. Cùng địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: I2; I3; I4; I5; I6.

1.2. Tóm tắt nội dung

B3 đã khởi kiện vào ngày 25 tháng 9 năm 2020 và trình bày rằng vào ngày 05/11/2012, anh I1 và bà I đã ký kết Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng B để vay số tiền 80 triệu đồng với mục đích làm nông nghiệp. Hợp đồng này có thời hạn 13 tháng và lãi suất trong hạn là 1,65%/tháng. Bà I cũng ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo việc trả nợ. Sau quá trình vay vốn, anh I1 và bà I đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ. Số tiền còn nợ tính đến ngày 22/6/2021 là 170.635.725 đồng, gồm 50 triệu đồng nợ gốc và 120.635.725 đồng lãi quá hạn, cộng với lãi phát sinh sau ngày 23/6/2021. B3 đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền phạt chậm trả là 27.435.445 đồng. Trường hợp anh I1 và bà I không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, B có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Bà I, trong lời khai ngày 24/11/2020, thừa nhận một phần nợ và đồng ý để B có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp nếu cần. Ngoài ra, có thông tin về các nhân chứng không đến phiên tòa.

Hai người I3 và I4, trong lời khai ngày 13/4/2021, cũng đồng tình với việc phát mãi tài sản thế chấp nếu bà I không thể trả nợ.

Còn I2, I5 và I6 không tham gia vào phiên tòa và không ghi nhận được ý kiến của họ đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Kiên Long.

2. Nhận định của Tòa về nội dung tranh chấp

Đối với nội dung trình bày:

Nguyên đơn B (B) đã khởi kiện bà I và anh I1 về tranh chấp hợp đồng tín dụng dựa trên Hợp đồng tín dụng số HD9532/HĐTD ngày 05/11/2012 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số HD9532/HĐTC cùng ngày. Theo hợp đồng này, vào ngày 05/11/2012, bà I và anh I1 đã ký kết với Ngân hàng B để vay số tiền 80.000.000 đồng, với ngày giải ngân vào 06/11/2012 và thời hạn vay là 13 tháng. Lãi suất trong hạn là 1,65%/tháng, và lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Hình thức thanh toán lãi là hàng quý, và vốn trả hàng năm. Để đảm bảo khoản vay, bà I và anh I1 đã thế chấp quyền sử dụng đất tại ấp K, xã L, tỉnh Bạc Liêu, với diện tích 15.033m2, gồm đất trồng lúa, đất ao cá, đất ở, và đất vườn tạp. Tài sản này được chứng nhận bằng GCNQSD đất số Y 535111 do UBND huyện A cấp ngày 11/06/2004.

Do bà I và anh I1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ, Ngân hàng B đã yêu cầu họ thanh toán số tiền nợ tính đến ngày 25/09/2020, là 209.991.966 đồng, bao gồm cả số nợ gốc và lãi phát sinh từ ngày 26/09/2020 theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2020, bà I thừa nhận việc vay tiền và thế chấp tài sản để đảm bảo khoản vay của mình, nhưng bà không có khả năng thanh toán cho Ngân hàng do kinh doanh không thành công. Do đó, Hội đồng xét xử đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Kiên Long, buộc bà I và anh I1 phải thanh toán số tiền nợ tính đến hết ngày 22/6/2021, tức là 170.635.725 đồng, gồm số nợ gốc là 50.000.000 đồng và số lãi quá hạn là 120.635.725 đồng, cộng với lãi phát sinh từ ngày 23/6/2021 cho đến khi thanh toán xong nợ theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết.

Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:

Hội đồng xét xử đã tiến hành xem xét Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số HD9532/HĐTC ngày 05/11/2012, trong đó anh I1 và bà I đã thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất tọa lạc tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, với diện tích 15.033m2 (bao gồm đất trồng lúa 10.751m2, đất ao cá 436m2, đất ở 300m2, đất vườn tạp 3.546m2), thửa đất số 34; 36; 38; 59; 63-64-1; 64-2, tờ bản đồ số 02. Hợp đồng này đã được chứng thực và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.

Người đại diện theo ủy quyền của bên B, bà I, đã xác định rằng hiện trạng của đất hiện tại so với thời điểm thế chấp không có bất kỳ thay đổi nào. Vì vậy, về hình thức và nội dung, Hợp đồng thế chấp này phù hợp với quy định của pháp luật và có hiệu lực pháp luật.

Anh I3 và chị I4, người sử dụng trên phần đất thế chấp, cùng với anh Việt và chị Chang, đã biết về việc bà I và anh I1 thế chấp tài sản mà họ đang sử dụng để vay vốn ngân hàng và đã đồng ý cho Ngân hàng phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ trong trường hợp bà I và anh I1 không trả nợ hoặc trả không đầy đủ. Hơn nữa, Hội đồng xét xử đã áp dụng Án lệ số 11/2017/AL của Tòa án nhân dân tối cao đối với ông I3 và bà Châu Hoàng, để quy định quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng đối với phần đất tranh chấp mà ông Việt và bà Chang đang xây dựng nhà sử dụng tại thửa 63-64-1; 64-2, tờ bản đồ số 02, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 535111 do UBND huyện A cấp ngày 11/06/2004 cho hộ bà I, đất tọa lạc tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu.

Đối với yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện của B:

Đối với yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện của B đối với anh I1 và bà I về thanh toán tiền phạt chậm trả số tiền 27.435.445 đồng, Hội đồng xét xử đã xem xét và thấy rằng việc rút một phần yêu cầu khởi kiện là do ý nguyện của các bên. Do đó, Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện của B đối với anh I1 và bà I về yêu cầu thanh toán tiền phạt chậm trả là 27.435.445 đồng. Quyết định này được đưa ra dựa trên quy định tại điểm c của khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định rằng các bên có quyền tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện mà họ đã đưa ra.

3. Quyết định của Tòa án

Tòa án đã tuyên xử như sau:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của B đối với anh I1 và bà I liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng.

- Buộc anh I1 và bà I có nghĩa vụ thanh toán cho B (chi nhánh Bạc Liêu thụ hiện theo hợp đồng đã ký kết) tính đến hết ngày 22/6/2021 số tiền 170.635.725 đồng (Một trăm bảy mươi triệu, sáu trăm ba mươi lăm nghìn, bảy trăm hai mươi lăm đồng). Số tiền này bao gồm nợ gốc là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) và lãi quá hạn là 120.635.725 đồng (Một trăm hai mươi triệu sáu trăm ba mươi lăm nghìn, bảy trăm hai mươi lăm đồng).

Từ ngày 23/6/2021 trở đi, anh I1 và bà I còn phải tiếp tục trả khoản lãi quá hạn đối với số tiền còn nợ gốc chưa thanh toán cho B, theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, cho đến ngày thanh toán nợ dứt khoát. Trong trường hợp hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ với B, thì lãi suất mà anh I1 và bà I phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long, theo quyết định của Tòa án, cũng sẽ được điều chỉnh để phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long.

- Trường hợp anh I1 và bà I không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ hoặc thanh toán không đầy đủ nợ đối với B, thì B có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện A phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

- Tòa án đã chấp nhận rút một phần yêu cầu khởi kiện của B đối với anh Thắng và bà Tiến liên quan đến yêu cầu thanh toán tiền phạt chậm trả lãi, số tiền 27.435.445 đồng (Hai mươi bảy triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn, bốn trăm bốn mươi lăm đồng). Đồng thời, Tòa án cũng đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của B đối với anh I1 và bà I liên quan đến tiền phạt chậm trả lãi, cũng là số tiền 27.435.445 đồng (Hai mươi bảy triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn, bốn trăm bốn mươi lăm đồng).

- Áp dụng Án lệ số 11/2017/AL của Tòa án nhân dân tối cao, quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng đối với phần đất tranh chấp mà ông Việt và bà Chang đang cất nhà sử dụng tại thửa 63-64-1; 64-2, tờ bản đồ số 02, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 535111 do UBND huyện A cấp ngày 11/06/2004 cho hộ bà Tiến tọa lạc tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, thuộc quyền ưu tiên của ông I3 và bà Châu Hoàng. Điều này đảm bảo quyền lợi của các bên và tuân theo quy định của pháp luật.

Liên hệ qua 1900.868644 hoặc [email protected]