Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 35/2022/DS-PT

Qua bài viết dưới đây, Luật Hòa Nhựt chúng tôi sẽ cung cấp cho quý khách nội dung về Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 35/2022/DS-PT để quý khách có thêm thông tin hữu ích về vấn đề này:

1. Khái quát về bản án 35/2022/DS-PT

1.1. Các đương sự tham gia

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã diễn ra phiên xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2022/DS-ST, liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng. Vụ án này xuất phát từ bản án dân sự sơ thẩm số 13/2021/DS-ST ngày 18-6-2021 của Toà án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, mà ngân hàng đã kháng cáo.

Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2022/QĐ-PT ngày 14 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 24/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 02 năm 2022 đã được ban hành để chấp nhận kháng cáo và tiếp tục xem xét vụ án. Các bên liên quan trong phiên xử phúc thẩm bao gồm:

- Nguyên đơn:

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ, do ông Nguyễn Đình L làm đại diện, Chủ tịch Hội đồng quản trị. Địa chỉ: Số 22 N, phường T, quận H, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Đình L là ông Huỳnh Cảnh K, Chuyên viên, theo văn bản ủy quyền số 713/UQ-PVB ngày 13/3/2022 (có mặt).

- Bị đơn:

Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Bà Nguyễn Thị Ngọc T1, sinh năm 1997 (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ là nguyên đơn.

1.2. Tóm tắt nội dung vụ án

Ngày 15/5/2020, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ (PBank) đã đệ đơn khởi kiện vụ án liên quan đến hợp đồng tín dụng. Theo đơn khởi kiện và các lời khai, vào ngày 16/7/2019, PBank ký hợp đồng tín dụng số 970/2019 với Nguyễn Đức T và Nguyễn Thị Ngọc T1 để vay 940.000.000 đồng với thời hạn 72 tháng và lãi suất thả nổi điều chỉnh theo lãi suất huy động vốn. Hợp đồng này được thế chấp bằng chiếc xe ôtô Ford Ranger Raptor của anh T.

Anh T và chị T1 đã thanh toán một số tiền gốc và lãi, nhưng từ ngày 24/9/2019 trở đi, họ không thanh toán nữa. PBank đã gửi nhiều thông báo yêu cầu thanh toán, nhưng không nhận được phản hồi tích cực từ anh T và chị T1. Trước tình hình này, PBank đệ đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết và thanh toán tổng cộng 1.140.063.961 đồng, trong đó có tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả.

Chị Ngọc T1 thừa nhận vay tiền để mua xe ôtô cho anh T kinh doanh, nhưng chị không biết chi tiết về hợp đồng và thanh toán do anh T quản lý. Chị không có ý kiến về yêu cầu của PBank. Anh T, vắng mặt trong quá trình xử lý tòa án, không có ý kiến trình bày.

Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2021/DS-ST ngày 18-6-2021 của Tòa án nhân dân huyện D quyết định như sau:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ.

- Buộc anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 phải liên đới trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ tổng cộng 1.126.644.392 đồng, trong đó có tiền gốc, tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn.

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ về việc yêu cầu thanh toán tiền lãi chậm trả.

- Trường hợp anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 không thanh toán đủ tiền gốc và lãi, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ có quyền đề nghị phát mãi tài sản thế chấp, chiếc xe ôtô Ford Ranger Raptor.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/7/2021, người đại diện hợp pháp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ đã kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm. Nguyện vọng của Ngân hàng là sửa đổi bản án sơ thẩm để chấp nhận toàn bộ yêu cầu tính lãi của Ngân hàng.

Kiểm sát viên đã đưa ra ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự và nguyên đơn cũng đã tuân thủ đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, trừ bị đơn không tuân thủ đúng quyền và nghĩa vụ.

Về nội dung vụ án, anh T và chị T1 đã vay 940 triệu đồng từ Ngân hàng, thỏa thuận về việc trả lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả theo quy định của Ngân hàng. Tuy nhiên, sau một kỳ trả nợ, họ đã ngừng trả nợ, làm việc này làm việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận. Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về tính lãi chậm trả là không đúng theo pháp luật. Do đó, yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng là hợp lý, và Kiểm sát viên đề xuất Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, sửa đổi bản án sơ thẩm.

2. Nhận định của Tòa án

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và không rút đơn kháng cáo. Hội đồng xét xử, dựa trên chứng cứ trong hồ sơ và kết quả tranh tụng, cũng như ý kiến của Kiểm sát viên, đã đưa ra những nhận định sau:

- Bị đơn anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng họ vắng mặt mà không có lý do chính đáng, không phải do sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, và không có người đại diện tham gia phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt anh T và chị T1.

- Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ, yêu cầu anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 phải trả tiền lãi chậm trả cho Ngân hàng bằng 13.419.569 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng trong Hợp đồng cho vay, có thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán lãi chậm trả. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng và quyết định giải quyết nghĩa vụ trả tiền lãi chậm trả.

- Sau khi vay, anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 chỉ thực hiện thanh toán vốn và lãi cho Ngân hàng trong một kỳ, sau đó không tiếp tục thanh toán. Do đó, họ đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng. Tòa án sơ thẩm chỉ buộc anh T và chị T1 phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc là 926.853.039 đồng, lãi trong hạn là 156.274.252 đồng, và lãi quá hạn là 43.516.828 đồng. Tòa án không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về lãi chậm trả theo mức lãi suất 10%/năm, con số là 13.419.569 đồng, vì điều này không tuân thủ thỏa thuận trong hợp đồng và không tuân thủ quy định của pháp luật.

- Tòa án sơ thẩm cần rút kinh nghiệm khi áp dụng Án lệ để giải quyết tranh chấp, cần áp dụng đúng nội dung của Án lệ. Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp. Nội dung của Án lệ số 11/2017/AL ở đoạn 4 phần "Nhận định của Tòa án" và không phải đoạn 5, như Tòa án sơ thẩm đã áp dụng.

- Hội đồng xét xử, dựa trên ý kiến của Kiểm sát viên, đã quyết định tuân theo khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Họ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ và quyết định sửa đổi bản án sơ thẩm, cho rằng có căn cứ chấp nhận.

- Về vấn đề án phí: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ không còn nghĩa vụ chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã được hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ bằng 300.000 đồng theo biên lai số 0006867 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Trà Vinh. Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định lại tương ứng với nghĩa vụ của anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 trong việc trả tiền cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ.

3. Quyết định của Tòa án

Tòa án đã chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ và sửa bản án dân sự sơ thẩm. Quyết định như sau:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ.

- Buộc anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ số tiền nợ gốc, lãi trên nợ gốc, lãi quá hạn, và lãi chậm trả, tổng cộng là 1.140.063.961 đồng.

- Kể từ ngày xét xử sơ thẩm, bên phải còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu không có thỏa thuận, áp dụng mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí, hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ và án phí dân sự phúc thẩm được điều chỉnh tương ứng với nghĩa vụ trả tiền của anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1.

- Trong trường hợp anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Ngọc T1 không thanh toán đủ tiền nợ gốc và lãi, Ngân hàng có quyền đề nghị phát mãi tài sản thế chấp, đó là ôtô con Ford Ranger Raptor.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án.

Liên hệ qua 1900.868644 hoặc [email protected]