Điều kiện và thời hiệu yêu cầu cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại?

Điều kiện và thời hiệu yêu cầu cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại có thể được quy định trong quy chế cụ thể về giải quyết bồi thường nhà nước tại cơ quan Thuế tương ứng. Tuy nhiên, thông thường, các quy chế này thường đề cập đến những điều kiện và thời hiệu cơ bản sau đây:

1. Pháp luật quy định như thế nào về thời hiệu yêu cầu cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại?

Thời hiệu yêu cầu cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại được quy định tại khoản 1 Điều 5 Quy chế giải quyết bồi thường nhà nước tại cơ quan Thuế các cấp ban hành kèm theo Quyết định 657/QĐ-TCT năm 2023 như sau: Theo quy định này, thời hiệu yêu cầu bồi thường được xác định là 03 năm tính từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường, như quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 5 Luật Thuế nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa ngoại thương nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, quy định trên không áp dụng trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 52 Luật Thuế nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa ngoại thương và trường hợp yêu cầu bồi thường liên quan đến phục hồi danh dự.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 52 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, quy định về khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án được áp dụng. Điều này có nghĩa là, trong trường hợp người yêu cầu bồi thường không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường, hoặc từ ngày có biên bản kết quả thương lượng theo quy định tại khoản 7 Điều 46 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mà cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại không đưa ra quyết định giải quyết bồi thường, hoặc từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không đạt được thỏa thuận theo quy định tại khoản 7 Điều 46 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường.

Theo quy định, thời hiệu yêu cầu cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại được quy định trong khoản 1 Điều 5 của Quy chế giải quyết bồi thường nhà nước tại cơ quan Thuế các cấp ban hành kèm theo Quyết định 657/QĐ-TCT năm 2023 đã được công bố. Quy định này quy định rằng thời hiệu yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, quy định trên sẽ không áp dụng trong các trường hợp sau:

+ Trường hợp người yêu cầu bồi thường không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường hoặc khi cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại không ra quyết định giải quyết bồi thường sau khi có biên bản kết quả thương lượng.

+ Trường hợp có biên bản kết quả thương lượng không đạt được thỏa thuận giữa người yêu cầu bồi thường và cơ quan trực tiếp quản lý.

+ Trường hợp yêu cầu bồi thường liên quan đến việc phục hồi danh dự của người yêu cầu.

Với những trường hợp nêu trên, thời hiệu yêu cầu bồi thường không được tính theo quy định chung. Thay vào đó, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết bồi thường hoặc từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không thành. Quyền khởi kiện này giúp đảm bảo quyền lợi của người yêu cầu và tạo điều kiện để tranh tụng và giải quyết tranh chấp liên quan đến bồi thường được tiến hành một cách công bằng và minh bạch.

 

2. Quy định của pháp luật về điều kiện để được cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Điều 2 của Quy chế giải quyết bồi thường nhà nước tại cơ quan Thuế các cấp, được ban hành kèm theo Quyết định 657/QĐ-TCT năm 2023, và khoản 1 của Điều 4 trong Quy chế giải quyết bồi thường nhà nước tại cơ quan Thuế các cấp, được ban hành kèm theo Quyết định 657/QĐ-TCT năm 2023, điều kiện để được cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại đã được quy định cụ thể như sau:

Thứ nhất, để được cơ quan Thuế bồi thường thiệt hại, các trường hợp sau đây được xem xét:

- Khi cơ quan Thuế ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trái pháp luật;

- Khi cơ quan Thuế áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính trái pháp luật;

- Khi cơ quan Thuế áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trái pháp luật;

- Khi cơ quan Thuế áp dụng thuế, phí, lệ phí trái pháp luật; thu thuế, phí, lệ phí trái pháp luật; truy thu thuế, hoàn thuế trái pháp luật; thu tiền sử dụng đất trái pháp luật;

- Khi cơ quan Thuế không áp dụng hoặc áp dụng không đúng quy định của Luật Tố cáo 2018 trong việc bảo vệ người tố cáo, khi người tố cáo yêu cầu theo quy định tại khoản 6 của Điều 17 trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017;

- Khi cơ quan Thuế thực hiện hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin, bao gồm cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà không đính chính và không cung cấp lại thông tin;

- Khi cơ quan Thuế ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức thuế thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan Thuế.

Với các trường hợp nêu trên, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan Thuế bồi thường. Đồng thời, cơ quan Thuế cũng phải tuân thủ quy định và thực hiện các biện pháp bồi thường theo quy chế để đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại. Quy chế này giúp tạo ra một cơ chế công bằng và minh bạch trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại của nhà nước tại cơ quan Thuế các cấp, từ đó đảm bảo tính chất pháp lý và công tác quản lý thuế được tiến hành một cách hiệu quả và đáng tin cậy.

Thứ hai, để xác định trách nhiệm bồi thường của cơ quan Thuế, cần có đủ các căn cứ sau đây:

- Có một trong các căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của công chức thuế trong quá trình thi hành công vụ gây ra thiệt hại và có yêu cầu bồi thường tương ứng theo quy định tại khoản 2 của Điều 7 trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Điều này áp dụng khi công chức thuế vi phạm quy định pháp luật, gây ra thiệt hại và có yêu cầu bồi thường theo quy định.

- Có sự tổn hại thực tế của người bị thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm bồi thường của cơ quan Thuế. Điều này đòi hỏi sự tổn hại phải là thực tế, liên quan đến mất mát, tổn thất về tài sản, quyền lợi hoặc lợi ích của người bị thiệt hại và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của cơ quan Thuế.

- Có mối quan hệ nhân quả giữa sự tổn hại thực tế và hành vi gây ra sự tổn hại. Điều này có nghĩa là có một mối liên hệ trực tiếp và hợp lý giữa hành vi vi phạm của công chức thuế và sự tổn hại thực tế mà người bị thiệt hại phải chịu. Sự tổn hại phải là kết quả trực tiếp của hành vi vi phạm và không xảy ra nếu không có hành vi vi phạm đó.

Việc xác định trách nhiệm bồi thường của cơ quan Thuế dựa trên các căn cứ trên giúp đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại. Đồng thời, nó cũng đảm bảo rằng người bị thiệt hại sẽ được đền bù đúng mức thiệt hại mà họ phải chịu do hành vi vi phạm của công chức thuế trong quá trình thi hành công vụ.

 

3. Nguyên tắc bồi thường của cơ quan thuế khi người bị thiệt hại có một phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại

Nguyên tắc giải quyết bồi thường nhà nước đã được quy định chi tiết tại khoản 5 Điều 3 Quy chế về giải quyết bồi thường nhà nước, do cơ quan Thuế của các cấp ban hành kèm theo Quyết định số 657/QĐ-TCT vào năm 2023. Theo quy định đó, nguyên tắc này áp dụng trong trường hợp người bị thiệt hại có một phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại và cơ quan Thuế chỉ sẽ bồi thường phần thiệt hại còn lại sau khi trừ đi phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người bị thiệt hại.

Quy định về việc giải quyết bồi thường nhà nước đã đề cập rõ ràng rằng trong trường hợp người bị thiệt hại có một phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại, cơ quan Thuế sẽ chỉ tiến hành bồi thường cho phần thiệt hại còn lại sau khi trừ đi phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người bị thiệt hại. Quy định này được áp dụng nhằm đảm bảo sự công bằng và trách nhiệm của cả người bị thiệt hại và cơ quan Thuế trong quá trình giải quyết bồi thường.

Nguyên tắc này đặt ra một tiêu chí rõ ràng cho việc xác định mức độ phần lỗi của người bị thiệt hại. Cơ quan Thuế sẽ phải tiến hành một quá trình đánh giá tỉ mỉ và công bằng để xác định phần lỗi của người bị thiệt hại trong việc gây ra thiệt hại. Sau đó, phần lỗi này sẽ được tính toán và trừ đi từ số tiền bồi thường mà người bị thiệt hại sẽ nhận được từ cơ quan Thuế.

Việc trừ đi phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người bị thiệt hại là một biện pháp cần thiết để khắc phục sự bất công trong quá trình giải quyết bồi thường. Nếu không có quy định này, người bị thiệt hại có thể nhận được một khoản bồi thường cao hơn so với mức thiệt hại thực tế do phần lỗi của mình gây ra. Điều này không chỉ gây ra sự thiếu công bằng mà còn khuyến khích hành vi vi phạm và không có trách nhiệm.

Tuy nhiên, việc xác định phần lỗi của người bị thiệt hại có thể đòi hỏi một quá trình phức tạp và công phu. Cơ quan Thuế sẽ phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ và đưa ra quyết định chính xác về mức độ phần lỗi của người bị thiệt hại. Điều này đòi hỏi sự cẩn trọng, công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết.

Tóm lại, quy định về việc trừ đi phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người bị thiệt hại trong quá trình giải quyết bồi thường nhà nước là một biện pháp cần thiết để đảm bảo sự công bằng và trách nhiệm. Điều này giúp tránh việc người bị thiệt hại được hưởng lợi cao hơn so với mức thiệt hại thực tế do phần lỗi của mình gây ra. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này cần được thực hiện một cách công bằng, minh bạch và tuân thủ đúng quy trình quy định.

Luật Hòa Nhựt xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.868644 hoặc email: [email protected]. Xin trân trọng cảm ơn!