Làm sao khi bệnh nhân đến cơ sở khám chữa bệnh nhưng không có giấy tờ tùy thân?

Làm sao khi bệnh nhân đến cơ sở khám chữa bệnh nhưng không có giấy tờ tùy thân? Luật Hòa Nhựt chúng tôi sẽ giải đáp các vấn đề pháp luật liên quan qua bài viết chi tiết dưới đây, để quý khách có thêm thông tin hữu ích về nội dung này:

1. Xử lý như thế nào khi bệnh nhân đến cơ sở khám chữa bệnh nhưng không có giấy tờ tùy thân ?

Theo quy định của Điều 15 Nghị định 146/2018/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 1 Nghị định 75/2023/NĐ-CP, đối với trường hợp bệnh nhân đến cơ sở khám chữa bệnh mà không có giấy tờ tùy thân, cơ sở khám bệnh cần tuân theo các quy định về thủ tục khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Theo đó, người tham gia bảo hiểm y tế khi khám bệnh, chữa bệnh phải xuất trình thẻ bảo hiểm y tế có ảnh hoặc căn cước công dân. Trong trường hợp thẻ bảo hiểm y tế chưa có ảnh, bệnh nhân cần phải xuất trình thêm một trong các giấy tờ tùy thân có ảnh do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, hoặc giấy xác nhận của công an cấp xã, hoặc giấy tờ khác có xác nhận của cơ sở giáo dục nơi quản lý học sinh, sinh viên. Ngoài ra, cũng có thể sử dụng các giấy tờ chứng minh nhân thân hợp pháp khác hoặc giấy tờ được định danh điện tử mức độ 2 theo quy định tại Nghị định số 59/2022/NĐ-CP về định danh và xác thực điện tử.

Đối với trẻ em dưới 6 tuổi, quy định chỉ đơn giản hóa hơn khi chỉ yêu cầu xuất trình thẻ bảo hiểm y tế. Trong trường hợp trẻ chưa có thẻ, bệnh nhân cần xuất trình bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh. Đối với trẻ phải điều trị ngay sau khi sinh mà chưa có giấy chứng sinh, thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cha, mẹ hoặc người giám hộ của trẻ cần ký xác nhận vào hồ sơ bệnh án để làm căn cứ thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Nghị định này và chịu trách nhiệm về việc xác nhận này.

Nếu người tham gia bảo hiểm y tế đang trong thời gian chờ cấp lại thẻ hoặc đổi thẻ, họ cần xuất trình giấy hẹn cấp lại thẻ, đổi thẻ bảo hiểm y tế cùng với một loại giấy tờ chứng minh về nhân thân. Giấy hẹn này được cấp bởi cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc tổ chức, cá nhân được cơ quan bảo hiểm xã hội ủy quyền tiếp nhận hồ sơ cấp lại thẻ, đổi thẻ và phải tuân theo Mẫu số 4 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.

Trong trường hợp người hiến bộ phận cần điều trị ngay sau khi hiến, thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi lấy bộ phận cơ thể cùng với người bệnh hoặc thân nhân của người bệnh phải ký xác nhận vào hồ sơ bệnh án. Hành động này không chỉ giúp làm căn cứ thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định này mà còn tạo điều kiện cho quá trình quản lý và theo dõi sức khỏe của người hiến bộ.

Về trường hợp cấp cứu làm nổi bật sự ưu tiên và quan trọng của việc khám bệnh, chữa bệnh ngay tại bất kỳ cơ sở nào và người tham gia bảo hiểm y tế cần xuất trình các giấy tờ quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này trước khi ra viện. Sau giai đoạn cấp cứu, quy định chuyển đến khoa, phòng điều trị khác để tiếp tục theo dõi, điều trị hoặc chuyển tuyến đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác giúp đảm bảo rằng người bệnh nhận được sự chăm sóc liên tục và hiệu quả.

Trong trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, trách nhiệm cung cấp giấy tờ, chứng từ hợp lệ liên quan đến chi phí khám bệnh, chữa bệnh khi ra viện là rất quan trọng. Điều này giúp người bệnh thanh toán trực tiếp với cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định tại các Điều 28, 29 và 30 Nghị định, tạo điều kiện thuận lợi và minh bạch cho quá trình thanh toán chi phí liên quan đến dịch vụ y tế.

Ngoài ra, quy định cụ thể rằng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ quan bảo hiểm xã hội không được áp đặt thêm thủ tục khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ngoài các quy định tại Điều này. Điều này nhằm mục đích đảm bảo tính đồng nhất và công bằng trong quy trình khám chữa bệnh. Đồng thời, việc sao chụp thẻ bảo hiểm y tế và các giấy tờ liên quan chỉ do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc cơ quan bảo hiểm xã hội tự thực hiện, không yêu cầu hoặc thu phí từ người bệnh về chi phí này, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý thông tin và bảo vệ quyền riêng tư của người bệnh.

Tất cả các quy định này nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý khám chữa bệnh, đồng thời giúp bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình thanh toán các chi phí liên quan đến dịch vụ y tế.

Như vậy, thủ tục khám chữa bệnh đối với người tham gia bảo hiểm y tế được đơn giản hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân. Quy định rõ ràng rằng khi khám bệnh, chữa bệnh, người bệnh chỉ cần xuất trình thẻ bảo hiểm y tế có dán ảnh. Trong trường hợp thẻ bảo hiểm y tế chưa có ảnh, bệnh nhân cần phải xuất trình thêm một trong các loại giấy tờ tùy thân có ảnh do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp.

Quy định này mang lại sự thuận tiện cho người bệnh, giảm bớt thủ tục phức tạp và tăng cường tính minh bạch trong quá trình khám chữa bệnh. Tuy nhiên, quan trọng là những người không có giấy tờ tùy thân hay thẻ bảo hiểm y tế khi đến khám bệnh vẫn được đảm bảo quyền lợi khám chữa bệnh. Điều này đồng nghĩa với việc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có quyền yêu cầu bệnh nhân xuất trình giấy tờ ngoài các loại đã quy định trong nghị định.

Trong tình huống người đến khám chữa bệnh không xuất trình giấy tờ tùy thân, thẻ bảo hiểm y tế, quy định đã đảm bảo rằng họ vẫn có quyền được khám và chữa bệnh. Điều này nhấn mạnh tính công bằng và quan tâm đặc biệt đến những trường hợp khẩn cấp hay những tình huống đặc biệt khi bệnh nhân không thể xuất trình giấy tờ.

Tuy nhiên, để đảm bảo quản lý thông tin hồ sơ và lưu trữ đầy đủ, đơn vị y tế vẫn có quyền yêu cầu bệnh nhân điền thông tin vào hồ sơ hoặc sổ khám bệnh. Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của bệnh nhân mà còn hỗ trợ cơ sở y tế trong việc theo dõi và đánh giá tình trạng sức khỏe của người bệnh, làm cơ sở cho quyết định điều trị và theo dõi tiến triển của bệnh lý. Đồng thời, việc lưu trữ thông tin chính xác cũng là cơ sở để cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện thanh toán chi phí liên quan đến dịch vụ y tế.

2. Sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 thay cho CCCD khi bệnh nhân đi khám chữa bệnh hay không ?

Theo quy định của Điều 15 Nghị định 146/2018/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 1 Nghị định 75/2023/NĐ-CP và theo khoản 5 Điều 13 Nghị định 59/2022/NĐ-CP, việc sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đã trở thành một lựa chọn quan trọng và có giá trị tương đương như việc sử dụng thẻ Căn cước công dân trong các giao dịch yêu cầu xuất trình thẻ Căn cước công dân. Điều này không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng và thủ tục phức tạp cho người dân mà còn phản ánh sự chuyển đổi và tiện lợi trong việc quản lý thông tin cá nhân.

Tài khoản định danh điện tử mức độ 2 được tạo lập bởi hệ thống định danh và xác thực điện tử đối với chủ thể danh tính điện tử là công dân Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc bệnh nhân khi đến cơ sở khám chữa bệnh có thể sử dụng tài khoản này để thực hiện các thủ tục đòi hỏi phải xuất trình giấy tờ tùy thân. Tài khoản này không chỉ giúp bệnh nhân tiết kiệm thời gian mà còn làm giảm gánh nặng về giấy tờ vật chất.

Cụ thể, khi bệnh nhân đăng ký và sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2, thông tin cá nhân của họ đã được đồng bộ và lưu trữ trong hệ thống, bao gồm các loại giấy tờ tùy thân. Khi thực hiện các giao dịch yêu cầu xuất trình giấy tờ, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể đối chiếu thông tin từ tài khoản định danh điện tử mức độ 2 mà không cần phải xuất trình giấy tờ vật chất.

Điều này không chỉ giúp tăng cường tính minh bạch và chính xác trong quá trình xác thực thông tin bệnh nhân mà còn giảm bớt rủi ro mất mát hoặc làm mất giấy tờ cá nhân. Đồng thời, sự chuyển đổi này còn phản ánh sự hiện đại hóa và tích hợp công nghệ vào lĩnh vực y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý thông tin và cung cấp dịch vụ y tế hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh thế giới ngày càng chuyển hướng vào công nghệ số, việc sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 không chỉ là một cơ hội để tối ưu hóa quá trình giao dịch mà còn là một bước tiến quan trọng trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ y tế và đáp ứng nhanh chóng với yêu cầu và mong muốn của người dân.

3. Những quyền của cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ?

Theo Điều 42 của Luật Bảo hiểm y tế 2008, cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được quy định một số quyền lợi quan trọng, nhằm đảm bảo quản lý, cung cấp dịch vụ y tế và bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế. Các quyền này không chỉ đặt ra những nguyên tắc cơ bản mà còn thể hiện tầm quan trọng của vai trò cơ sở y tế trong hệ thống bảo hiểm y tế.

Trước hết, theo quy định của Điều 42, cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm y tế cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin có liên quan đến người tham gia bảo hiểm y tế, kinh phí khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Điều này giúp cơ sở y tế có khả năng quản lý thông tin một cách chính xác, từ đó đảm bảo tính minh bạch trong quá trình thanh toán và quản lý chi phí y tế. Việc yêu cầu thông tin đầy đủ, chính xác cũng giúp tăng cường quản lý và đánh giá chất lượng dịch vụ y tế.

Tiếp theo, theo quy định khác, cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được quyền đề xuất với tổ chức bảo hiểm y tế tạm ứng kinh phí và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh đã ký. Quyền này giúp cơ sở y tế duy trì hoạt động liên tục và không gián đoạn trong việc cung cấp dịch vụ y tế cho người tham gia bảo hiểm y tế. Tổ chức bảo hiểm y tế tạm ứng kinh phí và thanh toán chi phí theo hợp đồng cũng đồng nghĩa với việc tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở y tế trong việc quản lý tài chính và duy trì chất lượng phục vụ.

Cuối cùng, cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo hiểm y tế. Quyền này đặt ra khía cạnh quản lý và giám sát, giúp bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, đồng thời đảm bảo rằng các tổ chức và cá nhân liên quan tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Điều này thể hiện sự cân nhắc đến quản lý chất lượng và tính minh bạch trong quá trình hoạt động của cơ sở y tế.

Liên hệ qua 1900.868644 hoặc qua [email protected]