Phân tích một số quan điểm và mô hình về kiểm soát tập trung kinh tế ?

Kiểm soát việc tập trung kinh tế là một vấn đề đặt ra để đảm bảo sự canh tranh trong một nên kinh tế. Vậy, có những mô hình nào để kiểm soát tập trung kinh tế ? Bài viết phân tích một số mô hình trên thế giới, cụ thể:

1. Quan điểm về kiểm soát tập trung kinh tế (TTKT)

C. Mác đã phát hiện ra nghịch lí:

“Cạnh tranh làm phát sinh tập trung kinh tế còn tập trung kinh tế lại tiêu diệt cạnh tranh”.

Thật vậy, tích tụ và tập trung tư bản sẽ dẫn đến tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất cao sẽ dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Lê-nin đã nhận xét:

“Tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung, sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định lại dẫn tới độc quyền".

Như vậy, tập trung kinh tế là một trong những con đường nhanh nhất, là cửa ngõ tạo ra những doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.

Như đã phân tích ở nội dung 1.2, tập trung kinh tế có các tác động khác nhau đến nền kinh tế. Từ đó, chính phủ các nước phải ban hành những đạo luật nhằm hạn chế những hoạt động tập trung kinh tế gây hạn chế cạnh tranh và ghi nhận những hình thức của tập trung kinh tế như quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư không ảnh hưởng đến cạnh tranh. Thông thường, pháp luật về doanh nghiệp hoặc pháp luật về công ti của các nước đều quy định các hình thức sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp là các biện pháp nhằm tổ chức lại doanh nghiệp. Đồng thời, các nước có nhiều biện pháp để kiểm soát tập trung kinh tế nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của tập trung kinh tế theo các quan điểm sau:

- Quan điểm áp dụng chủ nghĩa tự do: Tin vào sự tự điều chỉnh của thị trường, tin vào sự hợp lí của quá trình tập trung kinh tế hướng tới độc quyền nên nhà nước không thiết lập việc kiểm soát tập trung kinh tế.

- Quan điểm can thiệp để duy trì cạnh tranh: Nhà nước can thiệp để bảo vệ cạnh tranh bằng cách ngăn chặn độc quyền, chia nhỏ doanh nghiệp độc quyền, cấm các thoả thuận để hình thành vị trí thống lĩnh thị trường.

- Quan điểm giám sát để điều tiết: Nhà nước chấp nhận vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của một số doanh nghiệp nhưng sẽ ngăn ngừa, giám sát sự lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của các doanh nghiệp đó.

- Quan điểm công (quốc) hữu hoá để điều tiết: Nhà nước sẽ công (quốc) hữu hoá các doanh nghiệp có vị trí độc quyền và đặt các doanh nghiệp đó dưới sự quản lí của nhà nước, định hướng các doanh nghiệp đó hoạt động vì lợi ích chung.

Trên thực tế, các nước đều tìm cách phối họp các quan điểm trên. Trong đó, giải pháp chính vẫn là phối hợp giữa biện pháp can thiệp để duy trì cạnh tranh và khi độc quyền diễn ra thì tìm cách giám sát để điều tiết, hạn chế việc lạm dụng vị thế độc quyền.

Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát triển, quy luật tất yếu và đòi hỏi nội tại của nền kinh tế là quá trình tích tụ kinh tế như là nền tảng cho sự tăng trưởng. Mặt khác, thực tiễn đã cho thấy việc gia tăng sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam là hệ quả của quá trình hội nhập ngày một sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới sẽ khiến cho các hoạt động tập trung kinh tế ở quy mô có khả năng chi phối thị trường xuất hiện trong tương lai ngày càng nhiều. Chính vì vậy, xuất phát từ sự cần thiết phải kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế để tránh tình trạng hình thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh khống chế thị trường, khung pháp lí cho phép các cơ quan quản lí nhà nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế là đòi hỏi cấp thiết từ cả thực tiễn khách quan và chủ quan.

2. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế

Nhìn chung, trên thế giới tồn tại hai mô hình chính của cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế là mô hình Hoa Kỳ và mô hình châu Âu.

Mô hình Hoa Kỳ cấm tập trung kinh tế và độc quyền về mặt hình thức. Kiểm soát tập trung kinh tế mới được bắt đầu ở Hoa Kỳ hơn 100 năm nay khi Chính phủ Mỹ ban hành những đạo luật chống tờ rớt như kiểm soát, khống chế độc quyền và phá bỏ cản trở cạnh tranh. Hiện nay, hệ thống pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ bao gồm: Đạo luật Sherman năm 1890 nội dung chủ yếu là cấm thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Đạo luật Clayton năm 1914, bổ sung Luật Sherman thêm bốn hành vi: cấm phân biệt đối xử về giá; cấm kí hợp đồng mang tính độc quyền hoặc có nội dung ràng buộc; cấm việc chiếm vốn giữa các công tì; cấm kiêm nhiệm chức vụ. Đạo luật Celler- Keĩauver quy định việc kiểm soát sáp nhập, mua lại 

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tư tưởng chống tờ rớt đã mau chóng phổ biến sang Anh, Pháp, vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế chỉ được quan tâm ở châu Âu trong khoảng vài chục năm trở lại đây. Mô hình châu Âu được xây dựng trên nguyên tắc kiểm soát tập trung kinh tế và hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Mô hình này cho phép đăng kí những dự án kinh tế mà hạn chế không đáng kể đến cạnh tranh. Theo đó, không nhất thiết đặt ra yêu cầu phải thông báo về mọi vụ sáp nhập, mua lại để không tạo ra những gánh nặng không đáng có cho cơ quan quản lí, không làm phát sinh các khoản chi phí không hợp lí và làm chậm quá trình sáp nhập, mua lại.

Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế Hoa Kỳ được áp dụng ở Hoa Kỳ, Canada, Achentina... Mô hình kiểm soát kinh tế ở châu Âu được áp dụng ở các nước Tây Âu, Australia, New Zealand, Nam Phi.

3. Kiểm soát TTKT theo Luật cạnh tranh năm 2004

Từ những luận cứ cơ bản trên, kiểm soát TTKT đã được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản của pháp luật cạnh tranh hiện đại. Tất cả các quốc gia đang phát triển thị trường đều đặt ra cơ chế phối hợp giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về doanh nghiệp để kiểm soát việc TTKT. Theo đó, pháp luật về doanh nghiệp sẽ thừa nhận quyền được TTKT của doanh nhân, quy định về thủ tục pháp lý để họ thực hiện các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại và góp vốn để bảo đảm trật tự pháp lý trong kinh doanh.

Pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hiện tượng TTKT có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai cơ chế, đó là: Cấm đoán các trường hợp TTKT làm tổn hại đến tình trạng cạnh tranh; Kiểm soát các trường hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng trong xu hướng đó.

Căn cứ vào các quy định tại mục 3 chương II Luật cạnh tranh năm 2004, có thể thấy rằng, các nhà làm luật của Việt Nam đã chia các trường hợp TTKT thành 3 nhóm với thái độ xử lý khác nhau, là: Nhóm TTKT bị cấm (còn gọi là khu vực màu đen); Nhóm TTKT cần phải kiểm soát (khu vực màu xám); nhóm được tự do thực hiện TTKT (khu vực màu trắng). Phân tích các quy định đó, có thể đưa ra một vài đánh giá như sau:

Thứ nhất, Luật cạnh tranh đã sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm TTKT và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các trường hợp TTKT. Theo đó, những trường hợp TTKT mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp này, việc TTKT đã hình thành một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan mà không phải từ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó đã làm cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là thiểu số trên thị trường.

Bản chất hạn chế cạnh tranh thể hiện ngay ở sự thay đổi cơ bản, đột ngột trong tương quan cạnh tranh và cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Điều đó cũng cho thấy mức độ làm giảm, làm cản trở và sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể của nhóm hành vi này. Khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chỉ chiếm dưới 30% trên thị trường liên quan thì sự TTKT chưa có khả năng tạo ra vị trí thống lĩnh cho doanh nghiệp hình thành sau khi tập trung. Lúc này, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh chỉ đơn giản là các biện pháp cơ cấu lại kinh doanh hoặc đầu tư vốn bình thường nên chưa chứa đựng những nguy cơ đe dọa đến trật tự cạnh tranh trên thị trường.

Thứ hai, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát TTKT cho thấy, Luật cạnh tranh của Việt Nam chỉ quan tâm đến các trường hợp TTKT theo chiều ngang.

Thứ ba, Luật cạnh tranh cũng đã cân nhắc đến các yếu tố về tính hiệu quả của các trường hợp TTKT bằng cách đặt ra những trường hợp có thể được miễn trừ. Có hai trường hợp TTKT được xem xét cho hưởng miễn trừ là: một hoặc nhiều bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; Việc TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Cơ chế miễn trừ được đặt ra từ các luận điểm cơ bản của kinh tế học, theo đó, khi phân tích bản chất kinh tế của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc các trường hợp TTKT, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng có nhiều trường hợp xét về hình thức, hành vi TTKT của các doanh nghiệp đã cấu thành đủ các dấu hiệu để kết luận là vi phạm Luật cạnh tranh, song chúng lại có nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của kinh tế – xã hội.

Khi đó, lý thuyết về tính hiệu quả đã được đặt ra trong lý luận của khoa học pháp lý trong lĩnh vực cạnh tranh. Khi xem xét vấn đề miễn trừ đối với TTKT, cần phải nhấn mạnh rằng: Thủ tục miễn trừ được coi như điều kiện đủ để các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc TTKT rơi vào trường hợp bị cấm nhưng thỏa mãn đủ điều kiện được miễn trừ được thực hiện các thỏa thuận, các hành vi TTKT. Điều đó có nghĩa là các hành vi hạn chế cạnh tranh được miễn trừ không mặc nhiên được thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện do luật định về mặt nội dung mà phải có được quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thủ tục miễn trừ mang bản chất của thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh; quyết định cho hưởng miễn trừ không có giá trị vĩnh viễn. Chúng luôn có giá trị trong một thời hạn nhất định hoặc có thể được xem xét lại và có thể bị bãi bỏ theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp luôn gắn liền với các thủ tục về đăng ký kinh doanh, đăng ký kinh doanh bổ sung theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Do đó, khi tiến hành TTKT sẽ có hai tình huống xảy ra về thủ tục là nếu TTKT nằm ở khu vực màu trắng thì chỉ phải làm các thủ tục về việc đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục gì tại cơ quan cạnh tranh; nếu TTKT thuộc khu vực màu xám cần kiểm soát thì trước khi tiến hành các thủ tục tại cơ quan đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp tham gia tập trung phải làm thủ tục thông báo tại cơ quan quản lý cạnh tranh. Chỉ khi nào có trả lời của cơ quan này khẳng định việc TTKT không thuộc trường hợp bị cấm thì các doanh nghiệp mới được thực hiện các thủ tục về sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh theo pháp luật doanh nghiệp.

Thứ năm, khi các doanh nghiệp thực hiện các hành vi TTKT trái với pháp luật cạnh tranh như tiến hành TTKT trong những trường hợp bị cấm hoặc TTKT mà không thông báo, thì các doanh nghiệp vi phạm có thể bị phạt tiền tùy theo hành vi vi phạm từ 1% đến 10% doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành TTKT, có thể bị buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bị buộc phải bán tài sản đã mua.

4. Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình kiểm soát TTKT

Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh nói chung được xác định bởi chính tính chất của điều chỉnh và thực thi pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan có chức năng chủ yếu trong việc đưa pháp luật cạnh tranh vào cuộc sống và thông qua đó, góp phần xây dựng chính sách và pháp luật cạnh tranh. Trong khi, pháp luật cạnh tranh có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất: Pháp luật cạnh tranh là pháp luật điều tiết thị trường nên nó được xây dựng hết sức mềm dẻo để thích ứng với các hành vi cạnh tranh đa dạng trên thị trường. Vì vậy, đặc biệt trong lĩnh vực hạn chế cạnh tranh, pháp luật thường quy định kết hợp yếu tố định lượng và định tính mà theo đó, có thể cấm và cũng có thể được miễn trừ, tùy theo tình hình cụ thể của doanh nghiệp và chính sách cạnh tranh của Nhà nước ở mỗi thị trường cụ thể. Đây là tiền đề rất quan trọng để thiết lập cơ quan quản lý cạnh tranh là loại cơ quan phán xử độc lập về những vấn đề liên quan đến quản lý kinh tế vĩ mô và không nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Nó tạo dựng những quy tắc xử xự văn minh và chính đáng trong cạnh tranh, làm thước đo cho các cơ quan tư pháp áp dụng pháp luật.

Thứ hai: Là loại pháp luật điều tiết thị trường, pháp luật cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế và phải phù hợp với các chuẩn mực kinh tế. Do đó, khi thực thi pháp luật cạnh tranh, phân tích kinh tế là những thao tác rất quan trọng không thể thiếu. Vì vậy, các điều tra viên trong tố tụng cạnh tranh không chỉ phải biết kiến thức pháp luật và/hoặc quản trị doanh nghiệp thuần túy. Họ phải có khả năng nhìn thấu cả cấu trúc thị trường và phân tích được hệ quả tích cực và tiêu cực, so sánh chúng với nhau để tìm giải pháp có lợi chung cho nền kinh tế, cho môi trường cạnh tranh mà không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Đây là một nghề đặc biệt không có trong các cơ quan bộ hay hệ thống tư pháp.

Thứ ba: Pháp luật cạnh tranh là pháp luật lưỡng tính, bao gồm cả mảng luật công và luật tư. Vì vậy, các chế tài được áp dụng là cũng đa dạng (dân sự, hành chính, kinh tế…). Theo đó, việc áp dụng các chế tài phạt của Cục quản lý cạnh tranh không chỉ đơn thuần là phạt hành chính theo nghĩa thông trường.

Luật Cạnh tranh đã dành ra 1 chương (Chương IV) với 7 điều để quy định về hai thiết chế thực thi Luật Cạnh tranh bao gồm Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.

Ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, tên gọi và mô hình tổ chức của thiết chế thực thi Luật Cạnh tranh khá khác nhau, ví dụ ở Australia là Ủy ban người tiêu dùng và cạnh tranh, ở Belarus là Bộ đầu tư và doanh nghiệp, ở Đan Mạch là Hội đồng cạnh tranh, ở Pháp là Hội đồng cạnh tranh và Tổng cục cạnh tranh và chống gian lận thương mại và ở Việt Nam là Cục Quản lý cạnh tranh. Dù có những tên gọi khác nhau nhưng về cơ bản, những thiết chế thực thi Luật Cạnh tranh đều cần có các yếu tố sau: Phải được trao đầy đủ quyền hạn; Hoạt động phải đảm bảo tính tin cậy cao; Phải đảm bảo việc hoạt động và ra quyết định một cách độc lập; Phải đảm bảo tính minh bạch trong thực thi nhiệm vụ.​

5. Hình thức tập trung kinh tế

– Tập trung kinh tế bao gồm các hình thức sau đây: Sáp nhập doanh nghiệp; Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh nghiệp; Liên doanh giữa các doanh nghiệp; Các hình thức tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.

+ Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.

+ Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.

+ Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại.

+ Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.

Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!