1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Bộ Luật Dân sự năm 2015 điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như sau:
- Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: Được xác định trong ba trường hợp sau:
+ Ít nhất một bên là cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài.
+ Cả hai bên đều là công dân Việt Nam hoặc tổ chức Việt Nam, nhưng việc thiết lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra tại nước ngoài.
+ Cả hai bên đều là công dân Việt Nam hoặc tổ chức Việt Nam, nhưng vấn đề của quan hệ dân sự đó nằm ở nước ngoài.
- Áp dụng pháp luật: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo các hiệp định quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo luật pháp Việt Nam. Trong trường hợp có lựa chọn theo hiệp định hoặc luật Việt Nam, các bên được quyền lựa chọn. Nếu không thể xác định được, pháp luật áp dụng là pháp luật của quốc gia có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.
- Hạn chế áp dụng pháp luật nước ngoài: Pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng nếu không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc nếu nội dung của pháp luật nước ngoài không được xác định, mặc dù đã thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong trường hợp này, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng.
Điều 478 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định về việc Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu từ cơ quan, tổ chức nước ngoài được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Giấy tờ, tài liệu và bản dịch tiếng Việt được công chứng, chứng thực hợp pháp bởi cơ quan lãnh sự nước ngoài.
- Giấy tờ, tài liệu được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo các hiệp định quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tòa án Việt Nam cũng công nhận giấy tờ, tài liệu do cá nhân cư trú ở nước ngoài lập trong các trường hợp sau:
- Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt và được công chứng, chứng thực hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Giấy tờ, tài liệu được lập ở nước ngoài và được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nước ngoài, cũng như đã được hợp pháp hóa lãnh sự.
- Giấy tờ, tài liệu do công dân Việt Nam ở nước ngoài lập bằng tiếng Việt và có chữ ký của người lập, đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Có được áp dụng pháp luật nước ngoài cho giao dịch dân sự tại Việt Nam không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về phạm vi áp dụng như sau:
- Phần này quy định về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Trường hợp luật khác có quy định về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không trái với quy định từ Điều 664 đến Điều 671 của Bộ luật này thì luật đó được áp dụng, nếu trái thì quy định có liên quan của Phần thứ năm của Bộ luật này được áp dụng.
- Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
+ Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
+ Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài."
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 10 Luật Thương mại 2005 quy định về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại như sau:
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại: Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại.
Song song với đó tại Điều 11 Luật Thương mại 2005 quy định về nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại như sau:
- Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó.
- Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào."
Căn cứ theo quy định nêu trên, mọi hoạt động thương mại đều là sự tự do thỏa thuận, không trái với chuẩn mực xã hội, không trái pháp luật. giao dịch dân sự phải thuộc đối tượng tại Điều 663 nếu trên thì mới thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài.
3. Nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam
Khi pháp luật nước ngoài được áp dụng trong quá trình xét xử, nghĩa vụ chứng minh tính hợp pháp và hợp lý của việc áp dụng này - được hiểu là "nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài" - đòi hỏi hai quy trình khác nhau đối với các bên tham gia tố tụng.
Trường hợp nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự: Nếu các bên đồng ý áp dụng pháp luật nước ngoài, nghĩa vụ chứng minh thuộc về họ. Các đương sự phải thấu hiểu và nhận biết tính phù hợp của pháp luật nước ngoài trong việc giải quyết tranh chấp của mình. Do đó, nhiệm vụ chứng minh thuộc về các đương sự. Quy trình đòi hỏi các bên sau khi đạt được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài phải cung cấp và đảm bảo tính chính xác của luật nước ngoài cho Tòa án.
Trường hợp nghĩa vụ chứng minh thuộc về Tòa án: Khi áp dụng pháp luật nước ngoài mà không dựa trên thỏa thuận mà dựa trên pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế, nghĩa vụ chứng minh thuộc về Tòa án. Trong quá trình này, Tòa án phải đảm bảo việc tìm kiếm pháp luật nước ngoài phù hợp. Để thực hiện điều này, Tòa án có thể yêu cầu cơ chế phối hợp từ Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để cung cấp pháp luật nước ngoài hoặc yêu cầu sự trợ giúp của các chuyên gia pháp luật nước ngoài.
Nhìn chung, cả hai trường hợp đã nói đến đều cho thấy vai trò trung tâm của Tòa án trong quá trình chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài. Tòa án có lợi thế về tổ chức và phối hợp với các cơ quan chuyên môn, đồng thời cũng là chủ thể có hiểu biết và khả năng giải thích đúng đắn nhất về pháp luật nước ngoài.
Việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan hành chính tư pháp - ngoại giao là bắt buộc, với sự tương đồng nhất định như cơ chế tương trợ tư pháp dân sự hiện nay. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là phủ nhận nghĩa vụ chứng minh của các đương sự sau khi thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài.
Một số quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ có quy định rằng, mặc dù có quy phạm xung đột, nhưng Tòa án không áp dụng pháp luật nước ngoài nếu các đương sự không chứng minh sự cần thiết và không cung cấp đủ chứng cứ để chứng minh điều này.
Thực tế ở Việt Nam, các Tòa án thường có xu hướng "không áp dụng pháp luật nước ngoài" do hạn chế về mức độ hiểu biết và năng lực của cán bộ xét xử, cũng như khả năng tương trợ tư pháp giữa hệ thống Tòa án Việt Nam và cơ quan thẩm quyền nước ngoài.
Hoạt động chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam vẫn chưa có thực tiễn cụ thể. Hiện nay, hướng dẫn về nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam được đề cập trong dự thảo Nghị quyết hướng dẫn giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, nhưng vẫn còn nhiều nội dung chưa được cụ thể hoá, như phạm vi nội dung cần cung cấp, đầu mối cơ quan thẩm quyền nước ngoài, và chi phí phối hợp cung cấp pháp luật nước ngoài.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Pháp luật nước ngoài áp dụng giao dịch dân sự tại Việt nam được không? mà Công ty Luật Hòa Nhựt muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.868644 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email:[email protected] để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Hòa Nhựt xin trân trọng cảm ơn!