Pháp luật quốc tế về khởi kiện dân sự thu hồi tài sản tham nhũng và bài học tham khảo cho Việt Nam

Thu hồi tài sản tham nhũng là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Do vậy, trong những năm qua Nhà nước dành nhiều quan tâm cho hoạt động này. Tuy vậy, công tác thu hồi tài sản tham nhũng vẫn còn nhiều hạn chế bởi phương thức thực hiện:

Luật sư tư vấn:

Căn cứ quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có thể phân tích như sau:

1. Ý nghĩa của việc thu hồi tài sản tham nhũng là gì?

Việc phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng được thực hiện có hiệu quả sẽ là đòn giáng mạnh vào tâm lý tội phạm tham nhũng, ngăn chặn động cơ tham nhũng và khôi phục nền công lý ở mỗi quốc gia. Quan trọng hơn cả, tài sản tham nhũng được thu hồi sẽ góp phần khắc phục một phần hoặc toàn bộ thiệt hại mà hành vi tham nhũng đã gây ra cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. Với ý nghĩa đó, thu hồi tài sản tham nhũng đóng vai trò quan trọng, là một yếu tố chính của chiến lược phòng, chống tham nhũng của bất kỳ quốc gia nào. Ở góc độ quốc tế, đặc biệt là sau khi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (UNCAC) có hiệu lực, thu hồi tài sản tham nhũng đã ngày càng trở nên quan trọng hơn trong các chương trình nghị sự quốc tế. Đây cũng là một trong những nội dung sẽ được đưa vào Chu trình đánh giá lần thứ hai về việc thực thi Công ước này của các quốc gia thành viên.

2. Các phương thức thu hồi tài sản tham nhũng trên thế giới

Hiện nay, các quốc gia sử dụng bốn phương thức cơ bản để thu hồi tài sản tham nhũng là:

(1) Thu hồi tài sản dựa trên truy tố hình sự;

(2) Thu hồi tài sản không dựa trên bản án hình sự;

(3) Thu hồi tài sản thông qua quyết định hành chính và

(4) Khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản.

Trong đó, phương thức thu hồi tài sản dựa trên quy trình khởi kiện dân sự được UNCAC khuyến nghị các quốc gia nghiên cứu để áp dụng: “Mỗi quốc gia thành viên, căn cứ vào pháp luật quốc gia sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết cho phép quốc gia thành viên khác khởi kiện vụ án dân sự tại toà án để xác định quyền hay quyền sở hữu đối với tài sản có được qua việc thực hiện các tội được quy định trong Công ước này” (Điều 53(a)). Đồng thời, sáng kiến thu hồi tài sản bị đánh cắp (StAR) do Ngân hàng thế giới và Cơ quan Phòng, chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc đã đưa ra các hướng dẫn chi tiết và thực tiễn tốt cho việc nghiên cứu và vận dụng phương thức này.

3. Các hình thức khởi kiện để thu hồi tài sản tham nhũng

3.1. Khởi kiện khẳng định quyền sở hữu

Ở hầu hết các nước, tài sản bị biển thủ và các khoản hối lộ quan chức chính phủ có thể bị kiện để tìm kiếm sự bồi thường với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp và thực sự. Trong vụ án Tổng Chưởng lý Hồng Kông kiện Reid (1994)[3], Uỷ ban Chống tham nhũng độc lập của Đặc khu hành chính Hồng Kông đã tìm cách thu hồi tài sản New Zealand do một cựu Công tố viên, ông Warwick Reid, mua. Việc mua tài sản đó được ông này thực hiện bằng tiền hối lộ; ông ta đã nhận hối lộ để đổi lại việc không truy tố một số người phạm tội. Hai bất động sản do ông ta và vợ đứng tên, một bất động sản khác do luật sư của ông ta đứng tên. Thẩm phán ra phán quyết rằng những bất động sản này là hiện thân của các khoản hối lộ mà Reid đã nhận nên được Reid nắm giữ nhân danh Hoàng gia.

Toà án lý giải: Khi một người được uỷ thác đã vi phạm chức trách nhiệm vụ thực hiện việc nhận hối lộ, người này giữ khoản hối lộ đó thay cho người mà trước người đó anh ta phải chịu trách nhiệm. Nếu tài sản là hiện thân của khoản hối lộ đó bị giảm giá trị, người được uỷ thác phải trả số tiền chênh lệch giữa giá trị đó và số tiền hối lộ ban đầu; bởi vì, ông ta đã không được phép nhận khoản hối lộ đó. Nếu tài sản đó tăng giá trị, người được uỷ thác không có quyền sở hữu đối với bất kỳ khoản tăng thêm nào so với số tiền hối lộ ban đầu, vì ông ta không được phép kiếm lợi nhuận từ việc vi phạm nghĩa vụ trách nhiệm của mình.

3.2. Khởi kiện đòi bồi thường

Theo UNCAC, các quốc gia thành viên cần cho phép yêu cầu tương trợ tư pháp đòi bồi thường cho những thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra. Tiền bồi thường được trả cho bên nguyên đơn để bồi thường cho sự mất mát, thương tổn hoặc thiệt hại do sự vi phạm chức trách nhiệm vụ trực tiếp gây ra, bao gồm sai phạm hình sự, hành vi ứng xử phi đạo đức và sai sót tiền hợp đồng. Khi một hành vi tham nhũng đã xảy ra, nguyên đơn phải chứng minh rằng mình đã chịu những thiệt hại có thể bồi thường, rằng bị đơn đã vi phạm chức trách nhiệm vụ và rằng có mối liên hệ nhân quả giữa tham nhũng và thiệt hại.

Pháp nhân và cá nhân tham gia trực tiếp và có chủ ý vào hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm chính về bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, toà án có thể quy trách nhiệm cho cả những người hỗ trợ thực hiện hành vi tham nhũng hoặc những người không thực hiện các bước đi phù hợp để ngăn ngừa tham nhũng. Những đối tượng này có thể là các luật sư hoặc bên trung gian đã hỗ trợ cho các hành vi tham nhũng hoặc những công ty mẹ và chủ doanh nghiệp đã không có sự kiểm soát phù hợp đối với các công ty chi nhánh hoặc nhân viên của mình.

Ở một số nước theo hệ thống dân luật (Civil Law), bất kỳ người nào chịu thiệt hại trực tiếp bởi một tội phạm có thể khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại tại toà án dân sự hoặc toà án hình sự sau khi một bị cáo đã bị kết tội.

3.3. Khởi kiện dựa trên tính vô hiệu của hợp đồng hoặc vi phạm hợp đồng

Tính vô hiệu của hợp đồng được dựa trên căn cứ rằng, hợp đồng có được là do gian lận và sự đồng thuận bị tác động bởi tham nhũng.

Vi phạm hợp đồng cũng là một căn cứ cho việc khởi kiện, đặc biệt khi hợp đồng chứa đựng những điều khoản cam kết của nhà thầu không đưa bất kỳ khoản tiền đút lót nào cho các cá nhân liên quan đến việc trúng thầu hay thực hiện hợp đồng. Việc vi phạm điều cấm cụ thể này mang lại cho nguyên đơn quyền chấm dứt hợp đồng, tránh được trách nhiệm của chính mình và đòi bồi thường thiệt hại.

Vụ án Fyffes kiện Templeman và những người khác (2000): Fyffes là công ty kinh doanh chuối đã kiện một nhân viên của công ty, người chịu trách nhiệm đàm phán một thoả thuận dịch vụ với một nhà thầu vận chuyển, đã nhận hối lộ hơn 1,4 triệu đô la trong thời gian từ năm 1992 đến 1996. Khoản hối lộ bị phát hiện khi Cơ quan thu thuế nội địa Hoa Kỳ được báo cho biết về những khoản thanh toán không kê khai mà nhân viên này nhận ở Hoa Kỳ từ một công ty hợp nhất ở Cộng hoà Síp.

Fyffes tìm cách thu hồi thiệt hại từ nhân viên đó, công ty vận chuyển và các đại lý của công ty vận chuyển. Tất cả các bị cáo được xác định cùng chịu trách nhiệm về giá trị khoản hối lộ. Toà án phán quyết rằng “chắc chắn nhà thầu đã xem xét việc đưa hối lộ khi chấp nhận số cước phí mỗi năm, mà Fyffes sẽ phải trả ít hơn nếu họ chỉ phải trả khoản phí thực mà nhà thầu có thể chấp nhận”.

Công ty vận chuyển và các đại lý của công ty này chịu trách nhiệm trả khoản bồi thường bổ sung cho tổn hại mà Fyffes đã phải chịu khi ký hợp đồng với những điều khoản bất lợi. Đối với từng năm, Toà án xác định số tiền mà Fyffes phải trả nếu nhân viên đại diện đàm phán trung thực và kỹ lưỡng. Theo đó, các khoản thanh toán đã bị thổi phồng lên 830.022 đô la vào năm 1993 và 1,1 triệu đô la vào năm 1996.

3.4. Khởi kiện căn cứ trên hành vi làm giàu bất hợp pháp hoặc làm giàu không công bằng

Khởi kiện đòi lại hoặc đòi đền bù các lợi ích có được từ các hành vi bất hợp pháp và phi đạo đức xuất phát từ nguyên tắc: Không ai được phép hưởng lợi từ việc làm sai trái của mình hoặc từ hành vi làm giàu bất hợp pháp hoặc làm giàu không công bằng. Tòa án có thể ra phán quyết buộc bị cáo phải trả lại các lợi ích bất hợp pháp, kể cả khi nạn nhân không chịu thiệt hại hoặc không chịu bất kỳ bất lợi nào khác. Ở Hoa Kỳ, thông thường, thu hồi lợi ích có được từ các hành vi sai trái hoặc làm giàu bất hợp pháp được Ủy ban Tỷ giá và Chứng khoán và Bộ Tư pháp tiến hành qua các vụ kiện dân sự hoặc vụ án hình sự nhằm thực thi Luật Chống các hành vi tham nhũng nước ngoài.

4. Pháp luật Việt Nam về khởi kiện dân sự thu hồi tài sản tham nhũng

Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) không quy định trực tiếp về thu hồi tài sản tham nhũng. Các quy định liên quan đến việc thu hồi tài sản tham nhũng được thể hiện trong các điều luật quy định về quyền của chủ sở hữu đối với tài sản; xác định quyền của chủ sở hữu trong việc đòi lại các tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; đòi bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xâm phạm gây ra; nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, giúp cho tài sản bị tham nhũng được hoàn trả về đúng chủ sở hữu.

Như vậy, trong các trường hợp tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; bị thiệt hại do hành vi xâm phạm trái pháp luật gây ra (trong đó có hành vi tham nhũng); bị chiếm hữu, sử dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật (trong đó có những tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng), thì chủ sở hữu có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để đòi lại các tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; đòi bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xâm phạm gây ra; yêu cầu hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS) quy định những loại tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, trong đó có tranh chấp về quyền sở hữu tài sản. Như vậy, trong các trường hợp phát sinh các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản nói chung, trong đó có các tài sản tham nhũng thì thẩm quyền giải quyết là của Tòa án.

Về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước, khoản 4 Điều 18 Bộ luật TTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi có các hành vi tham nhũng xâm phạm tới quyền, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ.

Nhìn chung, những quy định liên quan tới việc thu hồi tài sản tham nhũng được quy định trong Bộ luật TTDS chủ yếu là các quy định về thẩm quyền khởi kiện các vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước khi bị các hành vi tham nhũng xâm phạm; trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; cũng như việc giải quyết các tranh chấp về tài sản nói chung, trong đó có tài sản tham nhũng, nhằm trả lại tài sản về cho chủ sở hữu hợp pháp.

Như vậy, căn cứ quy định của BLDS, Bộ luật TTDS, chúng ta có thể sử dụng biện pháp khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế này, trong đó có nguyên nhân là do quy định của pháp luật làm cơ sở cho việc khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa rõ ràng, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.

5. Một số câu hỏi thường gặp về thu hồi tài sản tham nhũng

5.1 Khởi kiện dân sự thu hồi tài sản tham nhũng là gì?

- Các vụ kiện dân sự thường đặc biệt hữu ích để xử lý các hậu quả về tài chính của tham nhũng trong các trường hợp các hành vi tham nhũng đã được thực hiện trong một thời gian dài; thậm chí một vài hay tất cả hành vi tham nhũng đã được chứng minh tại phiên tòa, nhưng có thể gần như không thể truy tìm tất cả tài sản tham nhũng bởi các tài liệu, bằng chứng không đầy đủ.

- Việc yêu cầu bồi thường thiệt hại nói chung trong vụ kiện dân sự có thể giải quyết được một số khó khăn về bằng chứng khi khó xác định sự liên hệ giữa tài sản và hành vi vi phạm theo các tiêu chuẩn bằng chứng hình sự (khi việc xác lập sự liên hệ trực tiếp giữa hành vi tham nhũng và tài sản là không thể hoặc rất khó khăn).

5.2 Sử dụng tài sản công đi tặng quà cho trẻ em mồ côi thì có vi phạm không?

Theo Khoản 1 Điều 22 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định về Tặng quà và nhận quà tặng

Cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được sử dụng tài chính công, tài sản công làm quà tặng, trừ trường hợp tặng quà vì mục đích từ thiện, đối ngoại và trong trường hợp cần thiết khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, cơ quan bạn sử dụng tài chính công làm quà tặng vì mục đích từ thiện giúp đỡ trẻ em mồ coi thì sẽ không vi phạm Luật phòng chống tham nhũng 2018.

Lưu ý: Việc tặng quà phải thực hiện đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn, đối tượng theo quy định của pháp luật; cơ quan, đơn vị tặng quà phải hạch toán kế toán và thực hiện công khai trong cơ quan, đơn vị mình theo đúng quy định của pháp luật. (Điều 24 Nghị định 59/2019/NĐ-CP).

5.3 Tiêu chí đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng là gì?

Việc đánh giá về công tác phòng, chống tham nhũng được thực hiện theo các tiêu chí sau đây:

- Số lượng, tính chất và mức độ của vụ việc, vụ án tham nhũng;

- Việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng;

- Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng;

- Việc phát hiện và xử lý tham nhũng;

- Việc thu hồi tài sản tham nhũng.

Trên đây là tư vấn của Luật Hòa Nhựt (Sưu tầm & biên tập). Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!