1. Thế nào là công trình điện lực?
Dựa theo quy định tại tiểu mục 3.16 của Mục I trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 01:2020/BCT, công trình điện lực được định nghĩa như một tổ hợp gồm các phương tiện, máy móc, thiết bị, và kết cấu xây dựng nhằm phục vụ trực tiếp các hoạt động như phát điện, truyền tải điện, phân phối điện, điều độ hệ thống điện, mua bán điện.
Ngoài ra, định nghĩa này còn bao gồm hệ thống bảo vệ cho công trình điện lực, hành lang bảo vệ an toàn lưới điện, và đất được sử dụng cho công trình điện lực, cũng như các công trình phụ trợ khác.
2. Cấu thành của tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện lực
(1) Về Chủ thể của Tội phạm:
Chủ thể của tội phạm được quy định theo một số tiêu chí nhất định, bao gồm độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự. Theo Điều 12 của Bộ luật hình sự 2015, người từ 16 tuổi trở lên có thể được xem là chủ thể của tội phạm. Điều quan trọng là chủ thể thực hiện tội phạm không nên mất năng lực nhận thức và điều khiển hành vi theo yêu cầu của xã hội. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 1, những chủ thể đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về vi phạm an toàn vận hành công trình điện, và tiếp tục vi phạm sau khi đã bị xử lý, sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
(2) Về Khách thể của Tội phạm:
Tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện được xem là vi phạm các quy định của Nhà nước liên quan đến an toàn vận hành công trình điện. Đối tượng tác động của tội phạm này chủ yếu là hành lang bảo vệ an toàn vận hành công trình điện. Hành lang này được xác định là một không gian quanh công trình điện để đảm bảo an toàn vận hành, bao gồm các hành lang bảo vệ an toàn cho đường dây tải điện 500kV Bắc-Nam, trạm biến áp, đường dây dẫn điện dưới lòng đất, dưới biển, dưới sông, ngòi, kênh, rạch. Các công trình điện cụ thể được mô tả như nhà máy thủy điện, nhà máy nhiệt điện, máy phát điện sử dụng năng lượng mặt trời, nguyên tử, sức gió, và hệ thống tải điện như đường dây và cột đỡ dây điện, cũng như các thiết bị phục vụ tải điện. Các công trình điện không còn sử dụng không thuộc đối tượng tác động của tội phạm này.
(3) Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm:
- Cho phép xây dựng nhà, công trình hoặc tự ý xây dựng trong phạm vi hành lang an toàn của công trình điện lực.
- Gây nổ, cháy, đốt rừng, làm nương rẫy, trồng cây, hoặc đổ cây, ảnh hưởng đến an toàn vận hành công trình điện lực.
- Đào hố, đóng cọc, xây dựng nhà trong hành lang bảo vệ đường cáp điện ngầm.
- Thả neo tàu, thuyền trong hành lang bảo vệ đường cáp điện ngầm đặt ở lòng sông, lòng biển đã có thông báo hoặc biển báo.
- Lắp đặt các thiết bị điện hoặc thi công đường điện không bảo đảm an toàn, hoặc thực hiện các hành vi khác gây mất an toàn vận hành công trình điện lực theo quy định của pháp luật.
Nếu những hành vi trên vừa cấu thành tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện và vừa cấu thành tội phạm khác, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội hoặc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong hai tội tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nguyên tắc chung là nếu hành vi của họ cấu thành nhiều tội khác nhau, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng nhất, nhưng cũng có khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội mà họ đã thực hiện.
Hậu quả của hành vi vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện có tính chất đặc biệt, vừa mang tính bắt buộc và đồng thời cũng có những khía cạnh không bắt buộc.
Đối với những trường hợp mà hậu quả được xem như là dấu hiệu bắt buộc, mức hậu quả tối thiểu thường liên quan đến những thương tích nghiêm trọng như tử vong, gây tổn thương cơ thể với tỷ lệ tổn thương trên 61%, hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên.
Trong khi đó, những trường hợp mà hậu quả không được coi là dấu hiệu bắt buộc, theo quy định tại khoản 4 của Điều luật, liên quan đến việc vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy có khả năng dẫn đến hậu quả nhất định. Trong trường hợp này, sự vi phạm không tạo ra hậu quả cụ thể ngay lập tức, mà chỉ khi có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả nêu bật trong các điểm quy định.
Để xác định xem hành vi có vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện hay không, các cơ quan tiến hành tố tụng cần tuân theo các văn bản quy phạm do Nhà nước ban hành, đặc biệt là những văn bản quy định về an toàn vận hành công trình điện và hành lang bảo vệ an toàn vận hành công trình điện.
(4) Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện có thể do vô ý, tức là họ có ý định thực hiện hành động đó mặc dù có nhận thức về khả năng gây hậu quả nguy hại cho xã hội. Trong trường hợp này, người phạm tội có thể thấy hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực, nhưng họ tin rằng hậu quả đó không xảy ra, hoặc có thể ngăn chặn được, hoặc thậm chí họ không nhận thức rằng hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù có khả năng nhìn thấy và dự đoán được hậu quả đó trước khi xảy ra. (Điều 11 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung năm 2017)
3. Hình phạt đối với tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện lực
Mức hình phạt cho tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện được phân loại thành bốn khung xử lý, chi tiết như sau:
Mức hình phạt tại Khoản 1 của Điều 314 Bộ Luật Hình sự:
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm cho các hành vi sau đây:
- Cho phép xây nhà, công trình hoặc tự ý xây nhà, công trình trong phạm vi hành lang bảo vệ an toàn công trình điện.
- Gây nổ, gây cháy, đốt rừng làm nương rẫy, làm đổ cây ảnh hưởng đến an toàn vận hành công trình điện.
- Đào hố, đóng cọc, xây nhà lên hành lang bảo vệ đường cáp điện ngầm.
- Thả neo tàu, thuyền trong hành lang bảo vệ đường cáp điện ngầm đặt ở lòng sông, lòng biển đã có thông báo hoặc biển báo.
- Lắp đặt các thiết bị điện hoặc thi công đường điện không bảo đảm an toàn.
Mức hình phạt tại Khoản 2 của Điều 314 Bộ Luật Hình sự:
Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với các tội phạm sau đây:
- Làm chết người.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của họ từ 61% đến 121%.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Mức hình phạt tại Khoản 3 của Điều 314 Bộ Luật Hình sự:
Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm cho những tội phạm sau đây:
- Làm chết 02 người trở lên.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là 122% trở lên.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên.
Mức hình phạt tại Khoản 4 của Điều 314 Bộ Luật Hình sự:
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm cho tội phạm trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời.
Mức hình phạt tại Khoản 5 của Điều 314 Bộ Luật Hình sự:
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tùy thuộc vào tình hình cụ thể của vụ án vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện.
Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!