1. Chính sách bảo hộ Hoa Kỳ
Mặc dù các quốc gia vẫn đang mở rộng quan hệ ngoại giao để đuổi kịp xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế nhưng bóng ma của chủ nghĩa bảo hộ dường như vẫn hiện hữu, thậm chí gần đây nổi lên khá mạnh, có thể dẫn tới các cuộc chiến thương mại, ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng kinh tế của các nước, khu vực và thế giới. Đặc biệt là chủ nghĩa bảo hộ ở Hoa Kỳ.
Chủ nghĩa bảo hộ ở Hoa Kỳ là chính sách kinh tế bảo hộ dựng lên thuế quan và các rào cản khác đối với hàng hóa nhập khẩu. Ở Mỹ, chính sách này phổ biến nhất vào thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, nó chủ yếu được sử dụng để bảo vệ các ngành công nghiệp miền Bắc và bị phản đối bởi các bang miền Nam muốn tự do thương mại để mở rộng xuất khẩu bông và nông sản khác. Các biện pháp bảo hộ bao gồm thuế quan và hạn ngạch đối với hàng hóa nhập khẩu, cùng với trợ cấp và các biện pháp khác, nhằm hạn chế sự di chuyển tự do của hàng hóa nhập khẩu , do đó khuyến khích ngành công nghiệp địa phương.
1.1 Chủ nghĩa bảo hộ dưới thời Donald Trump
Sau khi đặt chân vào Nhà Trắng, trở thành tổng thống thứ 45 của nước Mỹ, ông Donald Trump đã thực hiện chủ trương “Nước Mỹ trên hết”. Theo đó, nhằm bảo vệ lợi ích của Mỹ, Tổng thống Donald Trump đã đưa ra những quyết định gây sốc, rút Mỹ khỏi các thỏa thuận, tổ chức khu vực và quốc tế, trong đó có rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); đàm phán lại Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân Iran (JCPOA); ngừng đàm phán FTA với EU.
Điển hình nhất, Trump đã rút Mỹ khỏi TPP sau thời gian tái đàm phán không thành công với lý do bảo vệ việc làm cho người Mỹ. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận thấy TPP thực chất sẽ giúp thắt chặt mối liên kết giữa Mỹ và các quốc gia châu Á nhằm khống chế Bắc Kinh.
Cựu Tổng thống Trump coi chủ nghĩa bảo hộ là ưu tiên hàng đầu. Ông đã áp đặt thuế quan, loại hành động thực thi thương mại chính, đối với hàng hóa nhập khẩu trị giá gần 350 tỷ USD đến từ các đối thủ chiến lược và đồng minh của Hoa Kỳ. Mục tiêu chính của chính sách bảo hộ là thúc đẩy sản xuất và công nghiệp của Hoa Kỳ và thu hẹp thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ.
Tổng thống Trump còn yêu cầu doanh nghiệp Mỹ ở nước ngoài phải chuyển sản xuất về nước. Ông tuyên bố sẽ đánh thuế lên bất kỳ doanh nghiệp nào không đáp ứng được nhu cầu này. Hành động này trên thực tế đã làm dấy lên nhiều sự phản đối của giới doanh nghiệp. Nguyên nhân nằm ở cách tiếp cận mang tính kỹ thuật của Trump.
Việc áp đặt thuế và các biện pháp hành chính khác nhằm ép doanh nghiệp Mỹ quay trở lại đất nước thực chất là chữa bệnh ở phần ngọn. Các doanh nghiệp không muốn đưa dây chuyền sản xuất về nước, bởi lý do chi phí sản xuất trong nước lớn hơn nhiều việc đi thuê ngoài (outsourcing).
Vào tháng 05/2018, Tổng thống Trump thông báo đánh thuế 25% lên tất cả thép nhập khẩu, và 10% lên nhôm nhập khẩu. Chính quyền Trump cho rằng Hoa Kỳ phụ thuộc quá nhiều vào các quốc gia khác về vấn đề kim loại, và rằng trong trường hợp xảy ra chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ không thể nào tự sản xuất được vũ khí cũng như phương tiện cần thiết.
Theo đó, Mục 301 Đạo luật Thương mại HK 1974 trao cho tổng thống thẩm quyền rộng rãi để thực thi các quyền của Hoa Kỳ trong các hiệp định thương mại và trả đũa các hành vi ngoại thương không công bằng gây hại cho các công ty Hoa Kỳ. Kể từ khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào năm 1995, Mục 301 phần lớn không còn được sử dụng vì WTO có thủ tục giải quyết tranh chấp đối với các vi phạm hiệp định thương mại và các hành vi thương mại không công bằng. Cựu Tổng thống Trump đã rời bỏ quy tắc bằng cách bỏ qua WTO và sử dụng Mục 301 để đánh thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trị giá 350 tỷ USD từ Trung Quốc.
Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962 cho phép tổng thống áp đặt các hạn chế nhập khẩu nếu DOC nhận thấy rằng một số mặt hàng nhập khẩu đe dọa đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Bất kỳ bộ phận, cơ quan hoặc "bên quan tâm" nào đều có thể bắt đầu điều tra Mục 232 về hàng nhập khẩu. Mục 232 là một trong những công cụ thực thi thương mại mạnh mẽ nhất của tổng thống vì nó được viết rất rộng. Bất kỳ mối đe dọa kinh tế nào cũng có thể được hiểu là có hại cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Không giống như Mục 301, Mục 232 không phải xác định các hành vi vi phạm hoặc thực tiễn thương mại cụ thể. Nếu các cuộc điều tra của họ có thể cho thấy hàng nhập khẩu gây hại cho an ninh quốc gia, tổng thống có thể tự do áp đặt thuế quan theo quy chế. Cựu Tổng thống Trump đã sử dụng cách giải thích rộng rãi này của Mục 232 để áp đặt thuế quan đối với lượng thép và nhôm nhập khẩu trị giá 15 tỷ USD. Chính quyền của ông cho rằng những ngành này rất cần thiết cho an ninh quốc gia. Không giống như thuế quan Mục 301 chỉ áp dụng cho một quốc gia (“Thuế quan Trung Quốc”), thuế quan Mục 232 áp dụng cho thép và nhôm nhập khẩu từ các đồng minh chiến lược bao gồm Liên minh châu Âu (EU).
Theo Đạo luật thuế quan năm 1930, luật chống bán phá giá (AD) và chống trợ cấp (CV) cho phép DOC áp thuế và các hạn chế nhập khẩu khác nếu “phát hiện thấy hàng hóa nhập khẩu được bán ở Hoa Kỳ với mức giá thấp hoặc được trợ cấp không công bằng”. Đã có sự gia tăng đáng kể trong các thủ tục AD / CV dưới thời Chính quyền Trump. Nó ra lệnh cho DOC sử dụng luật AD và CV để xem xét kỹ lưỡng hơn các hành vi gian lận thương mại.
1.2. Chủ nghĩa bảo hộ dưới thời Biden
Một nhiệm kỳ tổng thống của Biden sẽ dẫn đến bình thường hóa một phần quan hệ thương mại, đánh dấu sự quay trở lại cách tiếp cận đa phương hơn và ít giao dịch hơn.
Chính quyền Biden hiện đang xem xét chính sách thương mại của Chính quyền Trump. Trong khi đó, Tổng thống Biden đã chọn giữ nguyên các mức thuế và hạn chế nhập khẩu khác nhau mà ban đầu cựu Tổng thống Trump áp đặt. Các thành viên của Cơ quan Quản lý Biden thậm chí còn coi các loại thuế quan là “hiệu quả” và “cần thiết”.Tổng thống Biden cũng ra lệnh đánh giá chuỗi cung ứng kéo dài 100 ngày được hoàn thành vào tháng 6 năm 2021. Các phát hiện của cuộc đánh giá cho thấy ý định của Chính quyền Biden trong việc theo đuổi chính sách công nghiệp,về mặt chính sách thương mại có nghĩa là chính phủ liên bang sẽ tìm cách bảo vệ ngành sản xuất và công nghiệp của Hoa Kỳ khỏi nhập khẩu và cạnh tranh nước ngoài. Những yếu tố này cho thấy Chính quyền Biden sẽ theo đuổi chính sách thương mại theo chủ nghĩa bảo hộ mà cựu Tổng thống Trump đã tán thành.
Ví dụ như một dự luật trị giá 50 tỷ đô la hiện đang được tranh luận tại Quốc hội để trợ cấp cho việc sản xuất chất bán dẫn của Hoa Kỳ. Để hỗ trợ chính sách công nghiệp trong nước này. Ông Biden cũng dựa trên ngôn ngữ rộng của Mục 232, Cơ quan Quản lý Biden có thể tuyên bố rằng bất kỳ điều gì làm tổn hại đến chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ đều có hại cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Do đó, Chính quyền Biden có khả năng theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ thông qua Mục 232 để hỗ trợ chính sách chuỗi cung ứng của tổng thống trong tương lai.
Hay một ví dụ khác, Do Tổng thống Biden đã ưu tiên năng lượng sạch, đặc biệt tập trung vào năng lượng mặt trời và việc sử dụng hàng hóa do Mỹ sản xuất, nên có vẻ như ông sẽ gia hạn thuế quan (hiện dự kiến kết thúc vào tháng 2 năm 2022) với mục đích tăng cường sản xuất các tấm pin mặt trời của Mỹ. Điều này đang sử dụng chủ nghĩa bảo hộ để đạt được một chương trình nghị sự về năng lượng sạch. Cựu Tổng thống Trump đã sử dụng Mục 201 để áp thuế 20% đối với hàng nhập khẩu tấm pin mặt trời . Chính quyền của ông cho rằng sự gia tăng nhập khẩu năng lượng mặt trời từ Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác đã gây hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất bảng điều khiển năng lượng mặt trời ở Hoa Kỳ. Cơ quan Quản lý Biden ủng hộ các mức thuế này; nó yêu cầu Tòa án Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ bác bỏ một vụ kiện thách thức tính hợp pháp của thuế quan và thậm chí tuyên bố rằng cựu Tổng thống Trump "đã hành động hợp pháp và đầy đủ trong thẩm quyền của mình" để áp đặt chúng.
Cơ quan Quản lý Biden đã báo hiệu rằng họ có thể sẵn sàng loại bỏ các mức thuế thép Mục 232 hiện hành đối với EU và thay thế bằng một TRQ. Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ áp dụng cho EU và thép. Nhập khẩu thép và nhôm từ các nước khác sẽ phải chịu mức thuế tương tự như được áp đặt dưới thời cựu Tổng thống Trump.
Như vậy, từ quan điểm kinh tế, sự khác biệt giữa ông Donald Trump và ông Joe Biden là rất rõ ràng. Chính quyền Trump thúc đẩy chính sách ủng hộ doanh nghiệp, dẫn đầu bằng việc bãi bỏ các quy định cứng nhắc, cắt giảm thuế và hoạt động thương mại quốc tế lấy nước Mỹ làm ưu tiên hàng đầu. Ngược lại, ông Joe Biden vận động tranh cử về các vấn đề môi trường, cải cách thuế và nhu cầu “khôi phục uy tín và ảnh hưởng của nước Mỹ trên toàn cầu”.
2. Đánh giá chính sách, chủ nghĩa bảo hộ Hoa kỳ
2.1. Điểm tích cực:
Bản chất của chủ nghĩa bảo hộ thương mại là việc chính phủ một nước muốn bảo vệ sản phẩm trong nước bằng cách đánh thuế ở mức cao đối với các sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ bên ngoài. Mục đích của các nước theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ là kích thích nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa nội địa, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của nước đó, đồng thời tránh được thâm hụt thương mại với các đối tác trong quan hệ trao đổi thương mại giữa hai bên.
2.2. Điểm hạn chế:
Điều dễ nhận thấy là tại các nước theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ thương mại, do các sản phẩm nhập khẩu phải chiụ mức thuế cao nên khó cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất ở trong nước. Do đó, phần lớn người tiêu dùng sẽ tìm đến các mặt hàng nội địa vì giá thành hấp dẫn hơn. Thực tế cho thấy, các biện pháp hạn chế nhập khẩu làm tổn thương đến kinh tế các nước và người tiêu dùng, nhất là những người có thu nhập thấp.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa vẫn là xu thế chủ đạo, thị trường trở nên mở hơn, đầu tư và thương mại ngày càng thuận lợi thì chủ nghĩa bảo hộ không chỉ có tác động tiêu cực đối với những nước theo đuổi xu thế này mà cả với tăng trưởng toàn cầu. Đối với các nước theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ thương mại, người tiêu dùng không có điều kiện để lựa chọn hàng hóa chất lượng cao và giá thành cạnh tranh như ở các nước theo đuổi thương mại tự do và ngay cả các nhà sản xuất cũng không có động lực để áp dụng công nghệ kỹ thuật cao vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh.
*Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời kì ông Trump và Joe Bidden
Tổng thống Mỹ Joe Biden và người tiền nhiệm Donald Trump có quan điểm đối nghịch nhau ở nhiều vấn đề và chính sách thuế. Ông Trump muốn kích thích tăng trưởng thông qua cắt giảm thuế để tăng thu nhập thực tế, kích thích chi tiêu tiêu dùng; trong khi ông Biden tìm cách tăng thuế với doanh nghiệp và hộ gia đình có thu nhập cao; lấy đó làm cơ sở để tăng chi tiêu chính phủ trong hàng loạt lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, an sinh xã hội và năng lượng sạch.
Năm 2017, ông Trump đã ký sắc lệnh miễn giảm thuế cho nhiều doanh nghiệp và một bộ phận người dân Mỹ, trong đó đối tượng hưởng lợi chủ yếu là người giàu. Theo sắc lệnh thuế của ông Trump, thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm từ 35% xuống còn 21%. Ngoài ra, thuế thu nhập của người dân cũng được cắt giảm. Ví dụ, mức thuế thu nhập tối đa được giảm từ 39,6% xuống còn 37% (áp dụng với người có thu nhập trên 524.000 USD/năm). Mức miễn trừ thuế cơ bản được tăng gấp đôi, theo đó miễn trừ thuế tới 20% cho các chủ doanh nghiệp, bao gồm người sở hữu duy nhất hoặc đối tác của doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó, luật cũng được điều chỉnh nên ít gia đình phải nộp thuế thừa kế hơn. Hầu hết chính sách thuế này được áp dụng tạm thời nhưng kéo dài tới hết năm 2025.
Theo CNBC, chính quyền của ông Biden đang tìm cách loại bỏ hoặc đảo ngược nhiều điều khoản trong chính sách thuế của cựu Tổng thống Trump. Ông Biden đang muốn tăng thuế với người giàu, đặc biệt là những người có thu nhập cao, tăng thuế an sinh xã hội nhiều hơn, bãi bỏ việc giảm mức thuế thu nhập tối đa, giảm giá trị các khoản khấu trừ, đồng thời tăng thuế đối với tài sản thừa kế và thu nhập từ đầu tư vốn, theo CNBC.
Trước đó, trong chiến dịch tranh cử, ông Biden cũng cam kết sẽ không tăng thuế đối với những người có thu nhập trung bình và thấp. Một số chính sách, như tăng tín dụng thuế, có thể sẽ giúp nhóm đối tượng này giảm số tiền thuế phải nộp.
"Chính quyền của ông Biden đang muốn cải cách hệ thống thuế theo hướng tiến bộ hơn", giáo sư về luật thuế Richard Winchester của Đại học Seton Hall, nhận xét. "Một số người thuộc nhóm giàu nhất tại Mỹ hiện nộp thuế còn ít hơn so với những người thuộc nhóm nghèo nhất".
Trong khi đó, chính sách thuế mới của ông Biden sẽ ngược lại hoàn toàn. Những người thuộc nhóm 1% giàu nhất sẽ phải trả thêm trung bình 260.000 USD từ năm sau, tương đương gần 16% thu nhập sau thuế của họ, theo phân tích từ Trung tâm Chính sách thuế Urban-Brookings. Còn nhóm thu nhập trung bình sẽ được giảm 680 USD tiền thuế, tương đương 1,1% thu nhập. Nhóm thu nhập thấp (dưới 25.000 USD/năm) sẽ được giảm 760 USD - tương đương 5,2% thu nhập.
Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!