Sự hình thành và phát triển pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam?

Trước thời kì đổi mới về cơ chế quản lí kinh tế (trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986), nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên chưa có điều kiện cho sự tồn tại của cạnh tranh.

1. Sự hình thành pháp luật cạnh tranh

Trong thời kì này, cạnh tranh là thuật ngữ xa lạ nên chưa xuất hiện nhu cầu cần có biện pháp, công cụ để điều tiết cạnh tranh.

Từ sau năm 1986, thực hiện chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, nền kinh tế đất nước chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó hình thành nên các điều kiện để cạnh tranh tồn tại và cần phải được bảo vệ. Bởi vậy, các quy định của pháp luật liên quan đến cạnh tranh cũng đã dần dần được hình thành nhàm bảo đảm nền kinh tể vận hành theo các nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường, trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh, quyền được hoạt động trong môi trường kinh doanh bình đẳng.

Trong thời gian này, mặc dù chưa có văn bản pháp luật riêng biệt điều chỉnh hoạt động cạnh tranh nhung rải rác ở nhiều vãn bản luật khác nhau đã xuất hiện những quy định nhằm điều tiết cạnh tranh của các doanh nghiệp góp phần tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh. Dựa vào nội dung điều chỉnh có thể thấy pháp luật ưong giai đoạn này điều tiết cạnh tranh ở những khía cạnh sau:

2. Quy định những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động cạnh tranh

Hoạt động cạnh tranh diễn ra gay gắt trong nền kinh tế thị trường trong đó quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ. Những nguyên tắc cơ bản nhất cho sự vận hành nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước được thể hiện trước hết trong Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Hiến pháp đã quy định một số vấn đề mang tính nguyên tắc làm tiền đề bảo vệ, duy trì cạnh tranh trong nền kinh tế. Đó là, khẳng định sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường (Điều 15); Ghi nhận nguyên tắc tự do kinh doanh (Điều 57); Ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế (Điều 22); Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và tài sản hợp pháp của cá nhân và tổ chức (Điều 22, Điều 23, Điều 58); Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các nhà sản xuất và người tiêu dùng (Điều 28).

Sau đó, Bộ luật dân sự năm 1995 đã quy định những nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự, đây cũng là những cơ sở pháp lí quan trọng cho sự phát triển của các quy định pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh và quy định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, vấn đề này đã được thể hiện rõ trong các nguyên tắc được ghi nhận trong Bộ luật dân sự là: Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp (Điều 4); nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận (Điều 7); nguyên tắc bình đẳng (Điều 8); nguyên tắc trung thực, thiện chí (Điều 9); các nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, họp tác, trung thực và ngay thẳng (Điều 395). Bộ luật dân sự cũng đã quy định trong hoạt động sản xuất kinh doanh nếu các chủ thể kinh doanh gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường và phải thực hiện một số chế tài khác như: chấm dứt hành vi vi phạm, xin lồi, cải chính công khai (Điều 609).

Ngoài Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật dân sự năm 1995 quy định những nguyên tắc làm nền tảng điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, Luật thương mại năm 1997 (đạo luật điều chỉnh trực tiếp các hoạt động thương mại trên thị trường Việt Nam) đã quy định một số nguyên tắc cạnh tranh trong hoạt động thương mại như: Thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại (khoản 1 Điều 8); thương nhân có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực về hàng hoá, dịch vụ mà mình cung ứng; phải đảm bảo tính hợp pháp của hàng hoá bán ra (khoản 1, 2 Điều 9). Luật cũng quy định rõ các hành vi cạnh tranh gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của đối thủ và lợi ích của người tiêu dùng sẽ bị cấm (Xem: Khoản 2 Điều 8, khoản 3 Điều 9 Luật thương mại năm 1997).

3. Điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong một số lĩnh vực cụ thể

Trước khi Luật cạnh tranh được Quốc hội thông qua vào tháng 12/2004, việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh trong một số lĩnh vực cụ thể đã xuất hiện trong một số văn bản pháp luật khác nhau. Cụ thể là:

- Trong lĩnh vực quảng cáo: Luật thương mại năm 1997, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999, Pháp lệnh chất lượng hàng hoá năm 2000, Pháp lệnh quảng cáo năm 2001 đều có những quy định cấm các hoạt động quảng cáo sau: Quảng cáo so sánh, bắt chước gây nhầm lẫn cho khách hàng; quảng cáo sai sự thật về quy cách, chất lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành. Những quy định này đã bước đầu chống các hành vi cạnh tranh thái quá làm ảnh hưởng tới lợi ích của đối thủ cạnh tranh và của người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo.

- Trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp: Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998 về chuyển giao công nghệ đã chứa đựng một số quy định kiểm soát hạn chế cạnh tranh. Điều 13 Nghị định này quy định: Buộc bên nhận công nghệ phải mua nguyên vật liệu nhất định, hạn chế quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ và trình độ công nghệ của bên nhận công nghệ. Nghị định của Chính phủ sổ 12/1999/NĐ-CP ngày 6/3/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp đã có nhiều quy định xử lí các hành vi vi phạm trong quá trình xác lập, thực hiện, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (từ Điều 5 đến Điều 9). Trong số các hành vi vi phạm đó, nhiều hành vi có thể được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: Sử dụng thông tin gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng công dụng, chất lượng của hàng hoầ, dịch vụ làm nhãn hiệu hàng hoá, lợi dụng hoặc hạ thấp uy tín thương mại của cơ sở kinh doanh khác, thủ tiêu đối tượng sở hữu công nghiệp, hạn chế hoặc thu hẹp phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của người khác.

- Trong lĩnh vực đấu thầu: Luật thương mại năm 1997 và Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 (được sửa đồi bởi quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000) là cơ sở pháp lí đảm bảo thực hiện tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong việc tuyển chọn nhà thầu và các khâu khác trong quá trình đấu thầu chống các hành vi câu kết, thông đồng giữa các bên dự thầu.

- Trong việc kiểm soát giá cả hàng hoá, dịch vụ: Trước năm 2005, việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh bằng giá được quy định một cách gián tiếp trong các văn bản liên quan đến quản lí giá của nhà nước hoặc thông qua các quy định về xử phạt hành chính trong một số lĩnh vực. Điều 11 Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 137/HĐBT năm 1992 đã quy định các hành vi vi phạm cạnh tranh về giá đối với những hàng hoá, dịch vụ quan trọng thuộc độc quyền nhà nước hoặc ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng hay liên quan đến lợi ích công cộng bao gồm: lợi dụng hoàn cảnh thiên tai hoặc khó khăn đặc biệt để nâng giá, ép giá gây thiệt hại cho người khác; bán giá thấp; gian lận để nhận tiền trợ giá, trợ cấp vận chuyển hàng hoá. Pháp lệnh giá năm 2002 đã quy định nguyên tắc quản lí giá: “Nhà nước tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh”. Đây là nguyên tắc quản lí giá rất quan trọng trong quá trình điều hành giá cả của nhà nước trong cơ chế thị trường. Ngoài ra, khá nhiều văn bản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, ngân hàng, chứng khoán và thị trường chứng khoán đã đưa ra các chế tài phạt (chủ yếu là phạt tiền) đối với các hành vi cạnh tranh bằng các thủ đoạn không lành mạnh liên quan đến giá hàng hoá, dịch vụ. Ví dụ, Điều 5 Nghị định số 22/2000/NĐ-CP ngày 10/7/2000 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán đã quy định: Các hành vi như lũng đoạn giá, làm sai lệch giá hoặc tạo giá giả tạo trong hoạt động giao dịch chứng khoán sẽ bị xử phạt...

 

4. Quy định các biện pháp xử lí đối với các hành vi phản cạnh tranh

Bên cạnh các văn bản quy định các nguyên tắc làm nền tảng cho hoạt động cạnh tranh và các quy phạm pháp luật đỉều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong một số lĩnh vực cụ thể, trong thời gian này Nhà nước đã ban hành một số quy phạm pháp luật hành chính và một số quy phạm pháp luật hình sự ttong việc xử lí các hành vi làm giả, buôn bán hàng giả, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, quảng cáo gian dối.

Như vậy, trong hơn 10 năm kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, các hoạt động cạnh ưanh trên thị trường nước ta đã xuất hiện với những biểu hiện khá đa dạng và bước đầu được điều chỉnh trong khá nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Các văn bản pháp luật này đã góp phần tạo khung pháp lí cần thiết cho cạnh tranh. Tuy nhiên, các quy định pháp luật Hên quan đến hoạt động cạnh tranh nhìn chung còn rất đơn giản, không đủ các chế định để quản lí quá trình cạnh tranh tinh vi, phức tạp và đa dạng của các doanh nghiệp trên thị trường, đặc biệt thiếu các chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh bình đẳng của các doanh nghiệp. Vì vậy, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và thực trạng pháp luật điều tiết cạnh tranh ưong thời gian này, việc ban hành Luật cạnh tranh là rất cần thiết, góp phần phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

Xuất phát từ 3 yếu tố quan trọng: 1) Nhu cầu điều tiết nền kinh tế thị trường bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong đó Luật cạnh tranh là một trong những luật cơ bản; 2) Nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt khi mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế; 3) Yêu cầu tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng, Quốc hội khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kì Quốc hội khoá XI trong đó có việc xây dựng Luật cạnh tranh. Thực hiện Nghị quyết số 12/2002/QH11, Chính phủ đã giao Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan soạn thảo dự án Luật cạnh tranh. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật cạnh tranh, ban soạn thảo đã phối hợp chật chẽ với các cơ quan như: ủy ban kinh tế-ngân sách của Quốc hội, ủy ban pháp luật của Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam... Mặt khác, để xây dựng dự thảo Luật cạnh tranh, ban soạn thảo Luật đã nghiên cứu và cho biên dịch Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức thương mại và phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD), các Luật cạnh tranh của một số nước có điều kiện kinh tế, xã hội tương đồng với Việt Nam như: Thái Lan, Croatia, Bungari, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Canada làm cơ sở tham khảo. Các quy định pháp luật của Việt Nam liên quan đến cạnh tranh cũng được hệ thống hoá và xem xét để kế thừa trong dự thảo Luật cạnh tranh. Sau nhiều lần dự thảo, cuối cùng Luật cạnh tranh số 27/2004/QH11 đã được Quốc hội khoá XI, kì họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2005.

Sau hơn mười năm thực thi, Luật cạnh tranh năm 2004 đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa có hiệu quả để kiểm soát các hành vi gây phản cạnh tranh trên thị trường trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Ngày 29/7/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 22/2016/QH14, quy định về việc xây dựng Luật cạnh tranh (sửa đổi). Ngày 12/6/2018, Quốc hội đã thông qua Luật cạnh tranh số 23/2018/QH14, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019. Luật cạnh tranh năm 2018 gồm 10 chương, 118 điều quy định những vấn đề sau:

- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 8) quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, quyền và nguyên tắc cạnh tranh trong kinh doanh, nguyên tắc áp dụng pháp luật về cạnh tranh, trách nhiệm quản lí nhà nước về cạnh tranh, các hành vi bị nghiêm cặm có liên quan đến cạnh tranh.

- Chương II: Từ Điều 9 đến Điều 10 quy định về việc xác định thị trường liên quan, xác định thị phần và thị phần kết họp.

- Chương III: Từ Điều 11 đến Điều 23 quy định các vấn đề liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

- Chương IV: Từ Điều 24 đến Điều 28 quy định các vấn đề liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền.

- Chương V: Từ Điều 29 đến Điều 44 quy định về tập trung kinh tế.

- Chương VI: Điều 45 quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm.

- Chương VII: Từ Điều 46 đến Điều 53 quy định về ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, thành viên ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh và điều tra viên vụ việc cạnh tranh. Luật cạnh tranh năm 2018 xác định ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan thuộc Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lí nhà nước về cạnh ttanh.

- Chương VIII: Từ Điều 54 đến Điều 109 quy định về tố tụng cạnh tranh.

- Chương IX: Từ Điều 110 đến Điều 115 quy định các vấn đề liên quan đến xử lí vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

- Chương X: Từ Điều 116 đến Điều 118 quy định về sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ quy định trong một số luật khác không phù hợp với quy định của Luật cạnh tranh; điều khoản chuyển tiếp và hiệu lực thi hành

5. Cạnh tranh bao gồm các yếu tố cơ bản nào?

Thứ nhất, khách hàng thường xuyên. Đây là đối tượng và cũng là mục tiêu mà tất cả các bên tham gia cạnh tranh đều hướng tới thu hút, lôi kéo. Trong luật cạnh tranh, khách hàng còn được gọi với các tên khác nhau như ‘‘người tiêu dùng’’ hoặc ‘‘người sử dụng’’. Cần nhấn mạnh rằng, khách hàng không phải là đối tượng thuộc sở hữu của riêng ai mà thuộc về doanh nghiệp nào mong muốn và có phương pháp thu hút họ một cách tốt nhất. Các doanh nghiệp được quyền sử dụng tất cả các biện pháp mà pháp luật không cấm để thu hút, lôi kéo khách hàng về phía mình. Chính vì vậy, trong luật cạnh tranh xuất hiện khái niệm ‘‘tính hợp pháp của thiệt hại cạnh tranh’’, nôm na được hiểu là khi một doanh nghiệp sử dụng các biện pháp mà pháp luật không cấm để thu hút khách hàng về phía mình thì doanh nghiệp khác bị ‘‘thiệt hại’’, biểu hiện qua việc bị mất một lượng khách hàng thường xuyên mà không có căn cứ pháp lý để khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Thứ hai, các bên tham gia cạnh tranh (chủ yếu là các doanh nghiệp). Muốn có cạnh tranh thì đương nhiên phải có ít nhất là 02 doanh nghiệp trở lên là đối thủ của nhau. Nếu không có đối thủ, hay nói cách khác là tình trạng độc quyền, thì cạnh tranh không thể diễn ra và do vậy, luật cạnh tranh cũng không có cơ sở kinh tế-xã hội để tồn tại. Chính vì vậy mà kiểm soát độc quyền vẫn thường được xem vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là một trong những mục tiêu hàng đầu của luật cạnh tranh.

Thứ ba, một môi trường chính trị, pháp lý tạo thuận lợi cho cạnh tranh. Đó chính là nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong môi trường mà tự do khế ước, tự do kinh doanh được thừa nhận như là những quyền cơ bản của công dân. Đương nhiên tự do nào cũng phải có giới hạn và tự do cạnh tranh với tính chất là hệ quả của tự do kinh doanh càng không phải là ngoại lệ. Vì vậy mà về bản chất, luật cạnh tranh được xem là luật điều tiết cạnh tranh.

Thứ tư, thị trường liên quan. Đây là một trong những khái niệm cơ bản của luật cạnh tranh và trước tiên, nó thuộc về phạm trù kinh tế. Nội hàm của nó thường được xác định thông qua hai yếu tố là thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan [4]. Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng, giá cả... Còn thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể (có thể là một khu phố, một tỉnh, một vùng, một quốc gia, thậm chí trên nhiều quốc gia) mà trên đó hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế được cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và khu vực địa lý này phải có sự khác biệt đáng kể với khu vực địa lý lân cận.

Chỉ có thể nói đến cạnh tranh khi đã xác định được thị trường liên quan. Khi xử lý các vụ việc về cạnh tranh thì việc xác định thị trường liên quan chính là công việc đầu tiên mà các chủ thể áp dụng luật cạnh tranh cần phải tiến hành.

Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!