Thế nào là hành vi hạn chế cạnh tranh? đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh?

Cạnh tranh là một trong những quy luật quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Mọi doanh nghiệp không phân biệt quy mô lớn hay nhỏ, ngành nghề sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động... đều phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh.

Trong kinh tế học, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) được nhìn nhận là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa Cartel là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các hàng có liên quan, nhưng có thể có hại cho các bên khác.

Khoản 1 Điều 81 Hiệp ước Rome nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định của hiệp hội doanh nghiệp và mọi hành động phối hợp có khả năng ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia thành viên và có mục đích hoặc hệ quả phản cạnh tranh.

Theo khoản 2 điều 3 Luật cạnh tranh 2018 thì:

“Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền”.

Như vậy, chỉ có những hành vi được đánh giá là gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh mới được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh.

Khi so sánh với Luật Cạnh tranh 2004 đã loại bỏ hành vi tập trung kinh tế  và định nghĩa của tác giả Garner trong từ điển Black’s Law về hành vi hạn chế cạnh tranh thường là hành vi bị cấm theo quy định pháp luật, theo nguyên tắc hợp lý có xét tới lợi ích của các bên và lợi ích công cộng thì định nghĩa ở Luật cạnh tranh 2018 có phần hạn hẹp hơn.

2. Đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh.

2.1 Về chủ thể.

- Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan;

- Các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Những hành động thống nhất của tổng công ty, của một tập đoàn kinh tế hoặc của các công ty mẹ, con, không được pháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận bởi thực chất các tập đoàn kinh tế nói trên cho dù bao gồm nhiều thành viên cũng chỉ là một chủ thể thống nhất.

Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện trong quá trình kinh doanh. Chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh chính là các chủ thể kinh doanh, tham gia cạnh tranh trên thị trường. Chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh có thể là chủ thể có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp khác nhau, cũng có thể là các hộ kinh doanh cá thể hay một cá nhân nào đó, miễn là chủ thể đó có thực hiện hoạt động kinh doanh. Trong một số trường hợp đặc biệt, các chủ thể như “hiệp hội ngành nghề” hay cơ quan Nhà nước cũng có thể trở thành chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh.

2.2 Về hậu quả.

Hành vi hạn chế cạnh tranh đi ngược lại lợi ích công cộng. Hành vi hạn chế cạnh tranh gây các tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, đi ngược với lợi ích của nhiều chủ thể trong xã hội trong đó có người tiêu dùng, một chủ thể đông đảo trong xã hội, do đó bị coi là hành vi đi ngược với lợi ích công cộng. 

Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Thế nên hậu quả đầu của thỏa thuận gây ra cho thị trường là xoá bỏ cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia. Khi nội dung thỏa thuận được hình thành, tạo ra những tiêu chuẩn chung về giá, về kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao kết hợp đồng… các doanh nghiệp đang từ đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ không còn cạnh tranh với nhau nữa. Bằng sức mạnh chung (nếu sự liên kết tạo nên sức mạnh thị trường) và bằng việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt hại cho khách hàng khi đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ.

3. Các dạng hành vi hạn chế cạnh tranh.

Căn cứ vào tác động bất lợi của hành vi gây ra đối với môi trường cạnh tranh, thông thường pháp luật cạnh tranh của đa số các quốc gia trên thế giới đều đề cập đến các dạng hành vi cơ bản sau: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam thì theo Luật Cạnh tranh 2018 thì các hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ còn các dạng hành vi sau:

3.1 Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh.

Thỏa thuận theo được định nghĩa là “hoạt động giữa hai hay nhiều người với nhau bằng hành vi hoặc không bằng hành vi để nhằm đạt được một cùng mục đích nhất định”

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi là hành vi giữa các các chủ thể thống nhất ý chí để nhằm đạt được mục đích kinh doanh nhất định. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, cho ta cái nhìn toàn diện về thuật ngữ này: Dưới góc độ kinh tế học, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự thống nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Dưới góc độ khoa học pháp lý có thể hiểu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường.

Như vậy, có thể hiểu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Theo khoản 4 điều 3 Luật cạnh tranh 2018: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.”

Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 liệt kê cụ thể các hành vi được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm: 

1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

2. Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

3. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

4. Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

5. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.

6. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.

7. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.

8. Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.

9. Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.

10. Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.

11. Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.”

3.2 Lạm dụng vị trí thống lĩnh vị trí độc quyền.

Theo Khoản 5 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018 : “Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.” 

Bên cạnh đó, Luật Cạnh tranh 2018 còn liệt kê cụ thể các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ vị trí độc quyền như sau: 

“1. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi sau đây:

a) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh;

b) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng;

c) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng;

d) Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;

đ) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;

e) Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác;

g) Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của luật khác.

2. Doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện hành vi sau đây:

a) Hành vi quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

b) Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng;

c) Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng;

d) Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm theo quy định của luật khác.

 Ngoài các đặc điểm chung của hành vi hạn chế cạnh tranh nêu trên, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có một số đặc điểm riêng sau: 

Thứ nhất, hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường do doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện, tức là doanh nghiệp đó phải ở vào vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên quan. 

Thứ hai, bản chất của hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường là doanh nghiệp dựa trên sức mạnh thị trưởng của mình để kiểm soát thị trường, bóc lột người tiêu dùng. Doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thường có tham vọng độc chiếm thị trường, không muốn chia sẻ lợi ích với các doanh nghiệp khác, họ không cạnh tranh một cách lành mạnh, tích cực mà thường dựa trên sức mạnh của mình để tác động lên thị trường theo hai hướng chính: Một là tìm cách làm giảm sức mạnh của đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ đối thủ khỏi thị trường hoặc ngăn cản sự gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới nhằm củng cố, duy trì sức mạnh của mình trên thị trường; hai là áp đặt các điều kiện bất lợi với đối tác hoặc người tiêu dùng để thu về lợi ích trực tiếp.

Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!