Xử phạt Huấn luyện viên không thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn cho vận động viên?

Theo quy định tại điểm a, khoản 1 của Điều 11 Nghị định 46/2019/NĐ-CP, huấn luyện viên thể thao thành tích cao sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu họ không xây dựng kế hoạch, chương trình huấn luyện thể thao và không thực hiện sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt.

1. Xử phạt hành vi huấn luyện viên thể thao thành tích cao không thực hiện chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt?

Việc phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao tại Việt Nam mang ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực và tầm vóc của người dân, đồng thời đóng góp vào việc cải thiện đời sống văn hoá và tinh thần cho cả xã hội. Ngoài ra, phát triển thể dục, thể thao còn góp phần tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế, tạo điều kiện cho việc hiểu biết và giao lưu giữa các quốc gia, dân tộc, đồng thời phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu này, cần tăng dần đầu tư ngân sách nhà nước và dành quỹ đất, đồng thời thiết lập chính sách nhằm phát huy tối đa nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo đủ nguồn nhân lực. Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực là một yếu tố quan trọng, cần tìm và bồi dưỡng những tài năng thể thao, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học cùng công nghệ để nâng cao chất lượng hoạt động thể dục, thể thao. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phát triển một số môn thể thao đạt trình độ thế giới.

Ngoài việc đầu tư từ ngân sách nhà nước, cần khuyến khích tổ chức và cá nhân tham gia vào việc phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao. Cần khuyến khích thành lập cơ sở dịch vụ thể thao để đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc tập luyện, vui chơi và giải trí. Đồng thời, cần đảm bảo sự bình đẳng giữa các cơ sở thể thao công lập và tư nhân trong việc hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng và đất đai theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại điểm a, khoản 1 của Điều 11Nghị định 46/2019/NĐ-CP, huấn luyện viên thể thao thành tích cao sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu họ không xây dựng kế hoạch, chương trình huấn luyện thể thao và không thực hiện sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt.

- Nghị định trên đã quy định rõ về vi phạm quyền và nghĩa vụ của huấn luyện viên thể thao thành tích cao. Nếu huấn luyện viên vi phạm nghĩa vụ của mình, họ sẽ phải đối mặt với mức phạt tiền như đã nêu trong quy định. Cụ thể, nếu họ không tuân thủ kế hoạch và chương trình huấn luyện đã được phê duyệt, họ sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

- Ngoài ra, nếu huấn luyện viên không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho vận động viên trong quá trình tập luyện và thi đấu thể thao hoặc không tuân thủ luật thi đấu của môn thể thao và điều lệ giải thi đấu, họ sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Đối với vi phạm quyền của huấn luyện viên, nếu họ không đảm bảo trang thiết bị huấn luyện cho mình, họ sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Nếu họ không thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn trong quá trình huấn luyện, họ sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Theo quy định tại khoản 2 của Điều 5 Nghị định 46/2019/NĐ-CP, mức phạt tiền và thẩm quyền phạt tiền trong lĩnh vực thể thao được quy định như sau: mức phạt tiền áp dụng đối với cá nhân, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính, mức phạt tiền đối với tổ chức sẽ gấp đôi so với cá nhân.

Vì vậy, huấn luyện viên thể thao thành tích cao sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu họ không thực hiện kế hoạch, chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt. Ngoài ra, những biện pháp kiểm soát và đánh giá hiệu suất cũng sẽ được áp dụng chặt chẽ để đảm bảo rằng huấn luyện viên không chỉ tuân theo kế hoạch mà còn đạt được những kết quả tích cực trong việc phát triển và nâng cao khả năng của đội ngũ vận động viên. Mức phạt tài chính được thiết lập không chỉ như một biện pháp trừng phạt mà còn như một động cơ tích cực để tăng cường trách nhiệm và nỗ lực của huấn luyện viên trong việc đảm bảo sự thành công và phát triển bền vững của đội ngũ thể thao. Điều này không chỉ là một cam kết đối với sự chuyên nghiệp mà còn là một động thái khích lệ, khuyến khích mọi thành viên trong cộng đồng thể thao hướng đến mục tiêu chung của sự phát triển và đạt được thành tích xuất sắc.

2. Quy định về thời hiệu xử phạt huấn luyện viên thể thao thành tích cao không thực hiện chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt trong bao lâu?

Theo quy định tại Điều 2a của Nghị định 46/2019/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 1 của Điều 2 Nghị định 129/2021/NĐ-CP, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao là 01 năm. Điều này áp dụng cho trường hợp huấn luyện viên thể thao thành tích cao không thực hiện chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt.

Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao được quy định như sau:

- Đối với hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; thời hiệu được tính từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm.

- Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.

- Trong trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức hoặc cá nhân do người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính chuyển đến, thời hiệu xử phạt được áp dụng theo quy định tính đến thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Vì vậy, theo quy định trên, thời hiệu xử phạt huấn luyện viên thể thao thành tích cao không thực hiện chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt là 01 năm. Tức là từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm hoặc từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm, tùy thuộc vào trạng thái thực hiện của hành vi vi phạm.

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt huấn luyện viên thể thao thành tích cao không thực hiện chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt không?

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Nghị định 46/2019/NĐ-CP, có quy định về phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính. 

- Điều 23 của Nghị định 46/2019/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 2 Nghị định 129/2021/NĐ-CP, quy định về thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Theo đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 5.000.000 đồng và tịch thu tang vật vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 10.000.000 đồng.

- Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 5 của Nghị định 46/2019/NĐ-CP, có quy định về mức phạt tiền và thẩm quyền phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao. Theo quy định này, thẩm quyền phạt tiền của các chức danh có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân là thẩm quyền áp dụng, và thẩm quyền phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức gấp đôi thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân.

Vì vậy, theo quy định trên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt huấn luyện viên thể thao thành tích cao không thực hiện chương trình huấn luyện thể thao sau khi được cơ quan sử dụng vận động viên phê duyệt. Mức phạt tiền cao nhất trong trường hợp này là 5.000.000 đồng.

Nếu quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến bài viết hoặc vấn đề pháp lý, chúng tôi luôn sẵn lòng hỗ trợ và giải đáp. Chúng tôi hiểu rằng thông tin pháp lý có thể phức tạp và đôi khi gây khó khăn cho khách hàng. Vì vậy, chúng tôi đã thiết lập tổng đài tư vấn pháp luật 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!