1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
Đây được coi là loại thoả thuận hạn chế cạnh tranh kinh điển và phổ biến nhất. Trong nền kinh tế thị trường, dưới sức ép của cạnh tranh, các doanh nghiệp phải tìm cách cắt giảm chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Do vậy, hành vi thông đồng ấn định giá bán giữa các doanh nghiệp nhàm tránh sức ép cạnh tranh thường bị cấm theo pháp luật cạnh tranh của tất cả các nước theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên bị cẩm (per se rule).
Có thể hiểu, bản chất của loại thoả thuận ấn định giá là việc thống nhất cùng hành động ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và được thực hiện dưới một trong các hình thức như:
- Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng;
- Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể;
- Áp dụng công thức tính giá chung;
- Duy trì tỉ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan;
- Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất;
- Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng;
- Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận;
- Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.
Mặc dù hậu quả chung của hành vi ấn định giá là hạn chế hoặc loại bỏ sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp nhưng căn cứ vào cách thức tác động đến giá hàng hoá hoặc dịch vụ, có thể chia các thỏa thuận về giá thành 2 nhóm: Các thoả thuận trực tiếp ấn định giá và các thoả thuận gián tiếp tác động đến giá hàng hoá, dịch vụ. Các thoả thuận trực tiếp ấn định giá mua, bán (gồm áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể và áp dụng công thức tính giá chung) dẫn đến kết quả là một mức giá mua, bán như nhau giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận. Các loại thoả thuận còn lại có thể được gọi là thoả thuận gián tiếp ấn định giá mua, bán và khác với nhóm thoả thuận trên ở chỗ chúng không tạo ra mức giá mua, bán như nhau giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận nhưng lại có tác dụng ngăn cản, kìm hãm các doanh nghiệp này định giá sản phẩm của mình một cách độc lập theo cơ chế thị trường.
Từ khi Luật cạnh tranh có hiệu lực đến nay mới chỉ có 1 vụ việc về thoả thuận ấn định giá được xử lí, đó là vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm kí văn bản thoả thuận tăng mức phí tối thiểu đối- với dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô vào cuối năm 2008. Theo bản thoả thuận, mức phí bảo hiểm tiêu chuẩn tăng từ 1,3% lên 1,56% và có hiệu lực từ 1/10/2008. Sau 1 năm điều tra, vụ việc đã được đem ra xử lí vào ngày 29/07/2010, Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh kết luận 19 doanh nghiệp này đã vi phạm Điều 8 và khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh (thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp tham gia thoả thuận là 99,79% toàn thị trường) và áp dụng mức phạt 0,025% tổng doanh thu trong năm tài chính trước đó đối với tất cả các doanh nghiệp tham gia thoả thuận (tổng mức phạt khoảng 1,7 tỉ đồng). Xem: Quyết định của Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh số 14/QĐ-HĐXL ngày 29/07/2010 về xử lí vụ việc cạnh tranh số KNCT-HCCT-0009. làm phân chia thị trường giữa các nhà sản xuất (trong khi loại thoả thuận thứ nhất thường được coi là làm hạn chế cạnh tranh thì loại thoả thuận thứ hai cần phải được đánh giá theo từng trường hợp cụ thể).
2. Thoả thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ
Bên cạnh việc thông đồng ấn định giá, các doanh nghiệp cũng có thể thoả thuận phân chia thị trường (theo lãnh thổ, loại hình hay quy mô của khách hàng, hay theo bất kì tiêu chí nào khác) nhằm giảm sức ép cạnh tranh và tạo ra sự độc quyền trong khu vực thị trường đã được phân chia. Đối với loại thoả thuận này cần lưu ý rằng, pháp luật các nước thường phân biệt những thoả thuận có mục đích phân chia thị trường với những thoả thuận không có mục đích nhưng có hậu quả
Có thể hiểu, thoả thuận phân chia thị trường bao gồm:
- Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ (thị trường bán) và
- Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ (thị trường mua), trong đó:
- Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ là việc thống nhất về số lượng hàng hoá, dịch vụ; địa điểm mua, bán hàng hoá, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi bên tham gia thoả thuận;
- Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất mỗi bên tham gia thoả thuận chỉ được mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát sổ lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
Đây là loại thoả thuận trong đó các bên thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó; hoặc thống nhất ấn định lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường.
Việc kiểm soát hay hạn chế này thường làm bóp méo nguồn cung trên thị trường, tạo ra sự khan hiếm giả tạo và đẩy giá hàng hoá lên cao, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Cũng giống như thoả thuận ẩn định giá, về bản chất, loại thoả thuận này có tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể và thường bị cấm triệt để theo pháp luật của các nước.
Khi xử lí các thoả thuận này cũng cần lưu ý rằng có nhiều lí do dẫn đến việc các doanh nghiệp cắt giảm hoặc ấn định số lượng, khối lượng hàng hoá, dịch vụ được sản xuất, mua bán hoặc cung ứng (như suy giảm nhu cầu của thị trường đối với hàng hoá hay dịch vụ đó; khủng hoảng kinh tế; hàng hoá tồn kho...) và không phải lúc nào việc cắt giảm số lượng, khối lượng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp cũng là kết quả của thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Chỉ khi nào việc cắt giảm sản lượng là kết quả của sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp nhằm làm giảm sức ép cạnh tranh thì Nhà nước mới cần can thiệp để bảo vệ cạnh tranh trên thị trường.
4. Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ
Đấu thầu là việc lựa chọn nhà cung cấp hàng hoá (dịch vụ) thông qua cạnh tranh về giá cả, chất lượng, tính năng kĩ thuật... để người mời thầu lựa chọn được nhà cung cấp có chất lượng tốt nhất và mức giá hợp lí nhất. Đặc điểm cơ bản của quá trình đấu thầu là các nhà thầu phải chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu độc lập với nhau. Hành vi thông đồng hay họp tác giữa các nhà thầu trong cuộc đấu thầu để một hoặc một số doanh nghiệp trúng thầu, về bản chất, luôn bị coi là làm hạn chế cạnh tranh đáng kể và khiến mục đích của cuộc đấu thầu không đạt được.
5. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh
Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường có thể hiểu là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận (tẩy chay) hoặc cùng hành động dưới các hình thức như yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận; mua, bán hàng hoá, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thoả thuận không thể tham gia thị trường liên quan...
Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh có thể hiểu là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận (tẩy chay) hoặc cùng hành động dưới các hình thức như: yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hoá của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp này; mua, bán hàng hoá, dịch vụ với mửc giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thoả thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh... Khác với trường hợp trên (đối tượng bị tác động là các doanh nghiệp chưa gia nhập thị trường), đối tượng bị tác động trong trường hợp này là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường liên quan.
Như vậy, loại thoả thuận này được áp dụng với các doanh nghiệp đang muốn gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh không phải là. các bên của thoả thuận bằng cách tẩy chay hoặc phong toả mạng lưới phân phối, tiêu thụ hoặc nguồn cung cấp hàng hoá (dịch vụ) của mình hoặc thống nhất tăng giá mua hoặc giảm giá bán hàng hoá (dịch vụ) và chấp nhận giảm lợi nhuận (thậm chí không có lợi nhuận) nhằm ngăn chặn các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường hoặc mở rộng thị phần.
6. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thoả thuận
Đây là loại thoả thuận trong đó các bên thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận (tẩy chay) và cùng hành động dưới các hình thức như: yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận; hoặc yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hoá của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp này; hoặc mua, bán hàng hoá, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thoả thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan.
Như vậy, khi so sánh với loại thoả thuận được quy định tại khoản 5 Điều 11, loại thoả thuận này có đặc điểm là đối tượng bị tác động là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường liên quan và mục đích (hoặc hậu quả) của loại thoả thuận này là loại bỏ (buộc đối tượng bị tác động phải rút lui khỏi thị trường liên quan). Ngoài ra, có thể thấy rằng nếu như mục đích (hay hậu quả) của loại thoả thuận được quy định tại khoản 5 Điều 11 Luật cạnh tranh là duy trì cấu trúc cạnh tranh hiện có trên thị trường thì loại thoả thuận được quy định tại khoản 6 Điều 11 là thay đổi cẩu trúc cạnh tranh và làm tăng tính tập trung trên thị trường.
7. Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư
Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ có thể hiểu là việc thống nhất mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu huỷ hoặc không sử dụng.
Thoả thuận hạn chế đầu tư có thể hiểu là việc thống nhất không đưa thêm vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến chất lượng hàng hoá, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển khác.
Trong thị trường tự do, lợi ích của người tiêu dùng không chỉ có được từ cạnh tranh về giá mà còn có được từ cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, tính năng của sản phẩm... Sự cạnh tranh này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư và phát triển công nghệ và kĩ thuật. Do vậy, những thoả thuận hạn chế đầu tư, hạn chế phát triển công nghệ và kĩ thuật sẽ kìm hãm cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và gây thiệt hại tới lợi ích của người tiêu dùng.
8. Thoả thuận áp đặt hoặc ẩn định điều kiện kí kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, .....
Nhằm giảm sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể cùng nhau thoả thuận trước các điều kiện hay điều khoản tiêu chuẩn sẽ được áp dụng khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ; các hiệp hội ngành nghề cũng có thể áp đặt cho các thành viên của mình nghĩa vụ phải sử dụng các điều khoản mua bán chung (tiêu chuẩn) do hiệp hội xác định trước. Những điều khoản tiêu chuẩn này thường được coi là có tác dụng hạn chế cạnh tranh đáng kể trừ khi các bên liên quan vẫn có quyền tự do lựa chọn việc có áp dụng những tiêu chuẩn này hay không trong từng hợp đồng cụ thể.
Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện kí kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ có thể hiểu là việc thống nhất đặt một hoặc một số điều kiện tiên quyết sau đây trước khi kí kết họp đồng:
- Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lí theo quy định của pháp luật về đại lí;
- Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hoá, trừ những hàng hoá thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật;
- Hạn chế về khách hàng mua hàng hoá để bán lại, trừ những hàng hoá thuộc trường hợp trên;
- Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
Thoả thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng có thể hiểu là việc thống nhất ràng buộc doanh nghiệp khác khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ với bất kì doanh nghiệp nào tham gia thoả thuận phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng (các hợp đồng này thường được gọi là các hợp đồng mua bán kèm nhằm bóc lột khách hàng).
Cần lưu ý rằng các thoả thuận này chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh khi khách hàng là các “doanh nghiệp khác”, như vậy, việc các doanh nghiệp đặt ra các điều kiện kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ với các tổ chức, cá nhân không có chức năng kinh doanh (không phải doanh nghiệp theo quy định của Luật cạnh tranh) sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định này. Ngoài ra, các điều kiện đặt ra phải là điều kiện “tiên quyết” để có thể kí kểt hợp đồng, nghĩa là khách hàng không có sự lựa chọn khác nếu muốn có được hợp đồng với các doanh nghiệp tham gia thoả thuận (điều này thường chỉ có thể thực hiện được khi các doanh nghiệp tham gia thoả thuận đang nắm giữ sức mạnh thị trường trên thị trường liên quan).
9. Thoả thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận
Về bản chất, đây chính là một hình thức của thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh được tách ra thành một loại thỏa thuận riêng được quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh năm 2018. Mục đích của loại thỏa thuận này chính là để ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.
10. Thoả thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ....
về bản chất, đây chính là một hình thức của thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh được tách ra thành một loại thỏa thuận riêng được quy định tại khoản 10 Điều 11 Luật cạnh tranh. Mục đích của loại thỏa thuận này chính là để ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, thỏa thuận này khác với loại thỏa thuận quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh ở chỗ, nếu như thỏa thuận quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh là thỏa thuận “không giao dịch” thì thỏa thuận quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh là thỏa thuận “hạn chế” thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bển không tham gia thỏa thuận.
11. Các hình thức xử lí đối với chủ thể tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Luật sư hướng dẫn:
Đối với các chủ thể tham gia các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm nhưng thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật hình sự (Xem: Khoản 1 Điều 111 Luật cạnh tranh năm 2018).
Hiện nay, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đã có quy định về Tội vi phạm quy định về cạnh tranh, theo đó, một số loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã chính thức bị hình sự hóa và quy định các mức phạt cụ thể (Xem: Điều 217 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hậu quả pháp lí của việc thực hiện các thoả thuận hạn chế cạnh tranh cũng được pháp luật cạnh tranh của nhiều nước quy định. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, tất cả các thoả thuận bị cơ quan quản lí cạnh tranh kết luận là vi phạm luật cạnh tranh đều vô hiệu. Ngoài ra, các bên vi phạm còn chịu mức phạt tiền lên tới 10% tổng doanh thu (tại từng nước hoặc trên toàn thế giới) của doanh nghiệp đó đối với từng năm vi phạm. Pháp luật một số nước như Anh, Pháp, Mỹ, Cộng hoà Ireland... còn xử lí hình sự đối với các cá nhân là lãnh đạo của doanh nghiệp vi phạm đối với những trường hợp nghiêm trọng.
Ví dụ, các thoả thuận ấn định giá, hạn chế sản lượng, phân chia thị trường, thông đồng ttong đấu thầu). Các tổ chức, cá nhân (kể cả người tiêu dùng) chịu thiệt hại trực tiếp từ thoả thuận hạn chế cạnh tranh có quyền khởi kiện tại toà án để đòi bồi thường thiệt hại. Cuối cùng, nhằm tăng cường hiệu quả của công tác phát hiện, điều tra và xử lí các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là các thoả thuận theo chiều ngang (cartels), pháp luật cạnh tranh các nước còn đưa ra quy định về chính sách khoan hồng, theo đó, nhà nước dành quyền miễn trừ hoặc giảm nhẹ các chế tài đối với các thành viên tham gia các - ten chủ động khai báo, cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh sự tồn tại của Các - ten và hợp tác với cơ quan điều tta trong suốt quá trình điều tta. Bản chất của các thoả thuận này là bí mật, do đó, việc điều tra, phát hiện những thoả thuận này thường rất khó khăn và tốn kém nếu không có sự hợp tác của các thành viên các - ten. Hiện nay Liên minh châu Âu và các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, Trung Quốc... đã và đang áp dụng chính sách này trong cuộc chiến chống các - ten. Kinh nghiệm của các quốc gia này cho thấy chính sách khoan hồng sau khi ra đời đã khẳng định được vai trò quan trọng của nó trong việc hỗ trợ cơ quan điều tra phát hiện và xử lí các - ten.
Về chế định khoan hồng, hiện nay, Luật cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam đã quy định chính sách khoan hồng trong xử lí các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.
Theo đó, doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lí hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Để được hưởng chính sách khoan hồng, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;
- Tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra;
- Khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ các thông tin, chứng cử có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện, điều tra và xử lí hành vi vi phạm;
- Hợp tác đầy đủ với cơ quan có thẩm quyền trong suốt quá trình điều tra và xử lí hành vi vi phạm.
Cần lưu ý rằng, theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam thì chính sách khoan hồng áp dụng cho không quá 03 doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đến ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên và việc xác định doanh nghiệp được hưởng khoan hồng căn cứ vào thứ tự khai báo; thời điểm khai báo; và mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp. Trong mọi trường hợp, chính sách khoan hồng không áp dụng đối với doanh nghiệp có vai trò ép buộc hoặc tổ chức cho các doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp đầu tiên có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên được miễn 100% mức phạt tiền; doanh nghiệp thứ hai và thứ ba có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên lần lượt được giảm 60% và 40% mức phạt tiền
Mọi thắc mắc quý khách hàng xin vui lòng gửi về số Hotline 1900.868644 hoặc địa chỉ email [email protected] để được giải đáp. Trân trọng!