Gián điệp là gì? Tội gián điệp theo quy định của Luật hình sự?

Gián điệp là (Hành vi) thu thập, cung cấp cũng như hành vì khác liên quan đến việc thu thập, cung cấp các bí mật nhà nước cũng như các thông tin khác giúp cho nước ngoài chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Cơ sở pháp lý về tội gián điệp

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

2. Quy định chung về gián điệp

Gián điệp là hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Trong Luật hình sự Việt Nam, gián điệp được quy định là tội danh độc lập kể từ khi Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 có hiệu lực. Trước đó, gián điệp được quy định chung cùng với các hành vi khác “có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Sắc lệnh số 13 ngày 13.9.1945). Cùng với Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 4967, Sắc luật số 03 năm 1976 cũng quy định tội , „ gián điệp nhưng không mô tả cụ thể như Pháp lệnh . năm 1967. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, tội gián điệp cùng được quy định là tội phạm thuộc chương “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Theo Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, hành vi gián điệp có thể là những hành vi sau:

1) Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

2) Gây cơ SỞ để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài;

3) Giúp sức cho việc hoạt động tình báo;

4) Cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài;

5) Thu thập bí mật nhà nước để cung cấp cho nước ngoài;

6) Thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chú nghĩa Việt Nam.

Hình phạt cho tội này có thể tới tử hình. Kẻ phạm tội cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và đã tự thú, thành thật khai báo.

3. Quy định luật hình sự về tội gián điệp

Tội gián điệp được quy định là “Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tĩnh báo, phả hoại chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo cùa nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tĩnh báo, phá hoại; Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chổng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tội gián điệp được quy định tại Điều 110 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).

3.1 Đặc điểm pháp lí tội gián điệp.

Mặt khách quan của tội phạm:

Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là loại hành vi do người nước ngoài và người không có quốc tịch thực hiện. Những người này có thể là nhân viên tình báo nước ngoài hoặc không phải là nhân viên tình báo nước ngoài, nhưng được cơ quan tình báo nước ngoài tuyển mộ, giao nhiệm vụ vào Việt Nam hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để tiến hành các hoạt động đó. Những người này vào Việt Nam có thể bằng con đường hợp pháp hoặc bất hợp pháp, núp dưới các danh nghĩa khác nhau như: nhân viên ngoại giao, thương nhân, phóng viên, nhà báo, khách du lịch, nhân viên các tổ chức phi chính phủ…

– Hoạt động tình báo được hiểu là việc tiến hành thu thập những tin tức, tài liệu thuộc bí mật của nhà nước hoặc những tin tức, tài liệu không thuộc bí mật của nhà nước, nhưng có thể sử dụng để chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để tiến hành hoạt động tình báo, người phạm tội gián điệp có thể sử dụng phương thức công khai, bí mật, các thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc, moi tin, quay phim, chụp ảnh, phỏng vấn…Ngoài hoạt động tình báo, hoạt động phá hoại cũng là loại hành vi mang tính phổ biến của người phạm tội gián điệp. Hoạt động phá hoại có thể được thực hiện dưới các hình thức như phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật, phá hoại các chính sách kinh tế – xã hội, chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, phá hoại tư tưởng…

Người nước ngoài có thể tự mình tiến hành hoạt động tình báo, phá hoại, cũng có thể thông qua người khác để hoạt động tình báo, phá hoại bằng cách gây cơ sở, giao nhiệm vụ cho họ tiến hành hoạt động tình báo, phá hoại hay chưa.

– Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện các hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại. Loại hành vi này do người Việt Nam thực hiện có sự chỉ đạo, giao nhiệm vụ của nước ngoài. Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài là hành vi của người Việt Nam được nước ngoài giao nhiệm vụ gây cơ sở để thu thập tin tức tình báo hoặc để tiến hành hoạt động phá hoại. Hoạt động thám báo là một hình thức hoạt động có tính chất vũ trang, chủ yếu là để thu thập những tin tức tình báo chiến thuật, xâm nhập vào nội địa phục kích, bắt cóc, bắn giết cán bộ, bộ đội, phá hoại, phục vụ âm mưu chống phá của nước ngoài đối với Việt Nam trên một địa bàn nhất định. Chứa chấp, dẫn đường, chỉ điểm hoặc thực hiện các hành vi khác giúp nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại được thể hiện dưới các hình thức che giấu giúp nơi ăn ở, sinh hoạt, dẫn đường, cung cấp phương tiện giao thông, phương tiện liên lạc, giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại.

– Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài, thu thập cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là hành vi do người Việt Nam thực hiện, nhưng không có sự chỉ đạo, giao nhiệm vụ của nước ngoài từ trước. Cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài là hành vi của người đang nắm giữ bí mật của nhà nước do cương vị công tác hoặc có được với bất kỳ lý do nào, chuyển giao bí mật đó cho nước ngoài. Thu thập nhằm cung cấp bí mật của nhà nước cho nước ngoài là hành vi của người không nắm giữ bí mật của nhà nước, nhưng có hành vi thu thập để cung cấp cho nước ngoài.

Ngoài ra việc thu thập, cung cấp những tài liệu khác tuy không thuộc bí mật nhà nước vào mục đích đề nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng bị coi phạm tội gián điệp. Những tài liệu không thuộc bí mật nhà nước có thể là bất kỳ tài liệu, tin tức về đời sống, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán của từng vùng, miền….Người thu thập, cung cấp những tài liệu này chỉ bị coi là phạm tội gián điệp, nếu người này có ý thức mong muốn nước ngoài sử dụng để chống Việt Nam hoặc khi cung cấp những tài liệu cho nước ngoài, người đó, nhận thức được rằng nước ngoài sẽ sử dụng các tài liệu do mình cung cấp gây thiệt hại cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối với hành vi cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài và hành vi cung cấp tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi cung cấp, không kể nước ngoài đã nhận được tài liệu chưa hoặc đã sử dụng tài liệu đó gây thiệt hại cho Việt Nam hay chưa. Đối với hành vi thu thập nhằm cung cấp bí mật của nhà nước cho nước ngoài, tội phạm hoàn thành ngay từ khi người phạm tội có hành vi thu thập bí mật của nhà nước.

Tội gián điệp là tội phạm có cấu thành hình thức, tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm.

Chủ thể của tội gián điệp có thể là người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS nếu họ thực hiện hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều 110 BLHS năm 2015. Chủ thể của tội gián điệp có thể là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS nếu họ thực hiện hành vi được quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 110 BLHS năm 2015.

Chú ý: tội gián điệp và tội phản bội Tổ quốc đều có dấu hiệu quan hệ với nước ngoài nhưng giữa hai tội này khác nhau ở chỗ: ở tội phản bội Tổ quốc, mối quan hệ với nước ngoài rất chặt chẽ, mang tính câu kết, còn ở tội gián điếp, mối quan hệ đó ít chặt chẽ hơn.

Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm: Tội gián điệp xâm hại đến an ninh quốc gia của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, sự vững mạnh của hệ thống chính quyền Nhà nước XHCN Việt Nam.

Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội gián điệp có thể là người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam. Người nước ngoài có thể là ngoại kiều hoặc người gốc Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài. Ví dụ: người đang ở trong nước nhận nhiệm vụ của tổ chức gián điệp nước ngoài, của người nước ngoài hoặc người do tổ chức gián điệp nước ngoài tung về nước thực hiện công việc do chúng chỉ đạo.

Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội gián điệp thuộc loại tội phạm có cấu thành hình thức, được coi là hoàn thành từ thời điểm chủ thể nhận lời làm gián điệp hoặc từ thời điểm chủ thể xâm nhập biên giới dù chưa hoạt động gì. Không phải tất cả những hành vi vượt biên trái phép rồi trở về và bị bắt ngay từ khi mới xâm nhập biên giới thì đều phạm tội gián điệp. Cơ quan tiến hành tố tụng phải có đầy đủ tài liệu chứng minh người đó trong thời gian ở nước ngoài đã nhận lời làm gián điệp cho một quốc gia nào đó.

Không phải bất cứ ai tiếp xúc với các cá nhân, cơ quan, tổ chức tình báo nào đó ở nước ngoài thì đều là gián điệp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó. Ngoài hoạt động tình báo, các cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó ở nước ngoài vẫn có những hoạt động xã hội bình thường với những cá nhân, tổ chức khác. Vì vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải có tài liệu chứng minh chủ thể phạm tội đã có hành vi đồng ý làm gián điệp cho một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó ở nước ngoài, nếu không có tài liệu chứng minh vấn đề này thì không đủ yếu tố cấu thành tội gián điệp.

3.2 Hình phạt đối với tội gián điệp

Khung hình phạt cho chuẩn bị phạm tội có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Ngoài ra, điều luật còn quy định trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Đó là trưởng hợp đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo.

4. Ý nghĩa khi quy định về tội gián điệp.

Việc quy định tội gián điệp trong Bộ luật hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xác định giới hạn hành vi nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia nói chung, cũng như xác định chính xác hành vi cụ thể nào xâm phạm khách thể trực tiếp của tội gián điệp để từ đó quyết định loại và mức hình phạt tương ứng, tạo cơ sở vững chắc cho đấu tranh phòng, chống tội phạm này một cách có hiệu quả.

5. Phân biệt tội gián điệp và tội phản bội tổ quốc.

Điều 108 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội phản bội Tổ quốc như sau:

“Điều 108. Tội phản bội Tổ quốc

1. Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

1. Giống nhau:

- Tội phản bội tổ quốc và tội gián điệp là những tội có mức độ nguy hiểm nghiêm trọng cho xã hội, bởi nó trực tiếp xâm hại đến khách thể quan trọng nhất trong xã hội chính là sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chủ quyền của Tổ quốc.

- Khách thể của cả hai tội này là xâm phạm đến quan hệ an ninh quốc gia.

- Hai tội này đều thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng với mức nguy hiểm đặc biệt lớn có khung hình phạt cao nhất quy định tại BLHS: từ 12 đến 20 năm tù, tù chung thân, tử hình.

2. Khác nhau:

Tiêu chí

Tội phản bội Tổ quốc

Tội gián điệp

Chủ thể

Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt, chỉ có thể là công dân Việt Nam, tức là người mang quốc tịch Việt Nam. Những người không phải là công dân Việt Nam: người nước ngoài, người không quốc tịch không phải là chủ thể của tội phản bội tổ quốc. Tuy nhiên, người nước ngoài, người không có quốc tịch cấu kết với công dân Việt Nam gây nguy hại đến các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phản bội Tổ quốc với vai trò là đồng phạm (người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục).

Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ ai, có thể là công dân Việt Nam, người mang quốc tịch nước ngoài, hoặc người không quốc tịch.

Mặt khách quan

Hành vi khách quan của tội phản bội tổ quốc được thể hiện như sau: Người phạm tội có hành vi cấu kết với người nước ngoài. Câu kết với nước ngoài được hiểu là sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với người nước ngoài nhằm chống lại Tổ quốc. Câu kết với người nước ngoài thường được thể hiện dưới hình thức:

- Bàn bạc với người nước ngoài về âm mưu, phương thức, kế hoạch hoạt động trước mắt cũng như lâu dài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

- Nhận sự giúp đỡ của nước ngoài về vũ khí, đạn dược, tiền bạc, các phương tiện kỹ thuật khác để chống lại tổ quốc.

Hoạt động dựa vào thế lực nước ngoài hoặc tiếp tay cho người nước ngoài chống lại Tổ quốc.

Tội phản bội tổ quốc được coi là hoàn thành, khi người phạm tội có hành vi cấu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

 

Mặt khách quan của tội gián điệp được đặc trưng bằng một trong những hành vi sau:

Hoạt động tình báo: là hành vi điều tra, thu thập mọi tin tức, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước hoặc không thuộc bí mật Nhà nước để sử dụng chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phá hoại: thể hiện ở việc người phạm tôi có hành vi chống phá nhà nước, làm cho việc thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước bị cản trở, không hoàn thành được. Những hành vi đó có mục đích chống chính quyền nhân dân và vì lợi ích của nước ngoài.

Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại thể hiện ở hành vi dụ dỗ, rủ rê, tìm người để có nơi ẩn náu, có người giúp đỡ và nói chung để tạo thuận tiện cho hoạt động gián điệp dưới một, hai hoặc ba mặt: hoạt động tình báo, phá hoại, gây cơ sở.

Hoạt động thám báo thể hiện ở hành vi hoạt động ở vùng biên giới vừa có tính chất thu thập tin tức, tình hình quân sự vừa có tính chất biệt kích vũ trang xâm nhập vào nội địa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phục kích, tập kích, bắt cóc người.

Tội gián điệp là tội có cấu thành hình thức. Tội phạmđược coi là hoàn thành từ thời điểm chủ thể nhận lời làm gián điệp hoặc từ thời điểm chủ thể xâm nhập biên giới dù chưa hoạt động gì. Vì vậy, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này.

Mặt chủ quan

- Lỗi: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi câu kết với người nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó.

Mục đích phạm tội: Người phạm tội thực hiện hành vi trên nhằm chống chính quyền nhân dân, thay đổi chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Mục đích chống chính quyền nhân dân là mục đích bắt buộc củacấu thành tội phạmtội phản bội Tổ quốc.

Lỗi: Tội gián điệp được thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Mục đích phạm tội: là nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực hình sự về tội gián điệp, Hãy gọi ngay: 1900.868644 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể. Trân trọng./.