Mua bán nợ là gì? Điều kiện để doanh nghiệp hoạt động mua bán nợ?

Mua bán nợ là việc bên bán nợ chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ và các quyền khác liên quan đến khoản nợ cho bên mua nợ và bên mua nợ trả tiền cho bên bán nợ. Để kinh doanh trong lĩnh vực này, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện như thế nào ? và các nội dung liên quan sẽ được tư vấn:

1. Điều kiện đối với doanh nghiệp thực hiện hoạt động mua bán nợ?

Thưa luật sư, xin hỏi: Điều kiện để một doanh nghiệp thực hiện hoạt động mua bán nợ hiện nay là gì ? Văn bản pháp luật nào điều chỉnh vấn đề này ? và các vấn đề pháp lý khác xin được hướng dẫn cụ thể.

Cảm ơn luật sư!

Luật sư tư vấn:

1.1 Mua bán nợ là gì?

Nợ là nghĩa vụ trả tài sản của bên nợ đối với chủ nợ được thể hiện trong hợp đồng hoặc phát sinh quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Mua bán nợ là việc bên bán nợ chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ và các quyền khác liên quan đến khoản nợ cho bên mua nợ và bên mua nợ trả tiền cho bên bán nợ.

Kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là việc thực hiện liên tục một hoặc một số hoạt động liên quan đến việc mua bán nợ nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: Mua nợ, bán nợ, môi giới mua bán nợ, tư vấn mua bán nợ và dịch vụ sàn giao dịch nợ.

Hoạt động mua bán nợ không phải là hoạt động kinh doanh là hoạt động mua bán nợ không liên tục, không nhằm mục đích sinh lợi của tổ chức, cá nhân, bao gồm:

+ Hoạt động bán nợ đối với các khoản nợ của chính chủ nợ, không bao gồm các khoản nợ mà chủ nợ đã mua từ các chủ nợ khác;

+ Hoạt động mua nợ không nhằm mục đích bán lại cho tổ chức, cá nhân, bao gồm cả hoạt động mua nợ để chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần; cơ cấu lại thời hạn trả nợ; xử lý tài sản bảo đảm;

+ Các hoạt động mua bán nợ khác không liên tục, không nhằm mục đích sinh lợi

Người quản lý của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.

Đồng thời người quản lý của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp;

+ Có trình độ học vấn từ đại học trở lên thuộc một trong các ngành: Kinh tế, quản trị kinh doanh, luật hoặc lĩnh vực chuyên môn mà mình sẽ đảm nhận;

+ Là người quản lý hoặc có ít nhất 05 năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, pháp luật, định giá tài sản hoặc mua bán nợ;

+ Những người đã làm việc trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp phải đáp ứng thêm điều kiện: Không là người quản lý của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong 03 năm trước liền kề.

1.2 Điều kiện với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ

Quy định như sau:

+ Doanh nghiệp phải có quy chế quản lý nội bộ về tổ chức, quy định nội bộ về hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ phù hợp với quy định của Nghị định này.

+ Doanh nghiệp phải đáp ứng quy định về mức vốn điều lệ, vốn đầu tư tối thiểu tương ứng theo quy định tại khoản 2 Điều 6, khoản 2 Điều 7 và khoản 2 Điều 8 Nghị định này. Trường hợp, doanh nghiệp thực hiện một số hoặc tất cả các hoạt động thì mức vốn điều lệ, vốn đầu tư tối thiểu là mức vốn điều lệ, vốn đầu tư tối thiểu cao nhất trong số các hoạt động mà doanh nghiệp thực hiện.

Ngoài những điều kiện chung, doanh nghiệp mua bán nợ phải đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định 69/2016/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ và Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 như sau:

Điều 7. Điều kiện đối với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ

1. Các điều kiện quy định tại Điều 5 Nghị định này.

2. Có mức vốn điều lệ, vốn đầu tư tối thiểu là 100 tỷ đồng.

3. Các khoản nợ được mua bán phải có đầy đủ các yếu tố sau đây:

a) Không có thỏa thuận bằng văn bản về việc không được mua, bán khoản nợ;

b) Không được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại thời điểm mua bán nợ, trừ trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của bên nhận bảo đảm về việc bán nợ;

c) Bên mua nợ và bên nợ không phải là người có liên quan theo quy định của Luật doanh nghiệp.

4. Việc mua bán nợ phải được lập thành hợp đồng bằng văn bản trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên liên quan, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mua bán nợ, trong đó quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ, bên bán nợ.

5. Doanh nghiệp hoạt động mua bán nợ không được nhận cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng để mua nợ của khách hàng vay tại chính tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó hoặc nhận bảo đảm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng để được cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng khác nhằm mục đích mua nợ của khách hàng vay tại chính tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo đảm.

6. Bên mua nợ, bên bán nợ, bên nợ và các bên liên quan khác phải tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật về quản lý ngoại hối trong trường hợp mua bán nợ hình thành quan hệ cho vay, vay nợ nước ngoài và sử dụng ngoại hối trong giao dịch mua bán nợ.

Như vậy, để kinh doanh dịch vụ mua bán nợ, doanh nghiệp phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên trước khi hoạt động kinh doanh.

2. Điều kiện về vốn để kinh doanh dịch vụ đòi nợ?

Theo quy định tại điều 13 nghị định 104/2007/NĐ-CP ngày 14/06/2007 về kinh doanh dịch vụ đòi nợ Mức vốn pháp định đối với ngành nghề kinh doanh dịch vụ đòi nợ là 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng).

Trong suốt quá trình hoạt động, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ phải duy trì mức vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định. Tham khảo: Nghị định 104/2007/NĐ-CP ngày 14/06/2007 về kinh doanh dịch vụ đòi nợ

3. Quy định về vay nợ và quản lý nợ của Việt Nam hiện nay?

Vay nợ chính phủ là một vấn đề lớn và vô cùng quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, vấn đề nợ chính phủ của Việt Nam có xu hướng tăng cao trong thời gian tới. Vì vậy, vấn đề tìm ra những giải pháp nhằm hoạch định chính sách và quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ một cách có hiệu quả là vô cùng cấp thiết.

3.1 Khái niệm về nợ chính phủ

Nợ chính phủ, còn gọi là nợ công hoặc nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền vay của chính quyền thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. Nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách nhà nước lũy kế đến một thời điểm nào đó.

Thuật ngữ nợ chính phủ được sử dụng khá phổ biến trong các thống kê tài chính quốc gia và thống kê của các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế hoặc Ngân hàng Thế giới. Trong thống kê của các tổ chức tài chính quốc tế, nợ chính phủ là tổng các khoản vay nợ trong và ngoài nước của chính phủ. Theo cách hiểu này, nợ chính phủ là số dư về nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi tại một thời điểm đối với các khoản vay trong nước và vay nước ngoài của chính phủ.

Nợ chính phủ bao gồm tổng nợ trong và ngoài nước của chính phủ, tổng các khoản vay nợ của khu vực tư có bảo lãnh của chính phủ (chủ yếu là nợ nước ngoài) và các khoản nợ của các tổ chức thuộc khu vực công. Nợ chính phủ bao gồm nợ của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Nói cách khác, nợ chính phủ chỉ liên quan đến hoạt động vay nợ của các cơ quan chính phủ thuộc đối tượng sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và được phép vay nợ theo quy định của pháp luật.

Theo thông lệ quốc tế, nợ của ngân hàng trung ương không được xếp vào nợ của chính phủ mà được tổng hợp vào nợ của khu vực công. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước là một cơ quan của Chính phủ, nên các khoản vay nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổng hợp vào nợ của Chính phủ.

Ở nước ta, để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, Chính phủ phải gắn một phần trách nhiệm của mình đối với một số khoản nợ của các chủ thể kinh tế khác, chẳng hạn của các tổ chức công, như Quỹ Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhà nước và nợ của khu vực tư có bảo lãnh của Chính phủ.

Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài của quốc gia. Nợ nước ngoài còn có thể định nghĩa là khoản vay của quốc gia đối với những chủ nợ cư trú ngoài phạm vi quốc gia (bao gồm cả những khoản nợ trong nước do người không cư trú tại quốc gia đó nắm giữ).

Đối với khoản nợ mà Chính phủ, các tổ chức trong nước vay Chính phủ, vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể được xác định khá chính xác. Đối với khoản nợ của các chủ nợ không cư trú ở nội địa thì rất khó tổng hợp đầy đủ và chính xác. Bởi vì các khoản nợ này có thể được thực hiện bằng đồng nội tệ hoặc ngoại tệ ngay trên thị trường nội địa, tiêu thức để xác định đó là khoản nợ nước ngoài dựa trên cơ sở chủ nợ là người cư trú ở nước ngoài. Vấn đề này thường được biết đến dưới một tên gọi khác là đầu tư gián tiếp của nước ngoài qua con đường phổ biến nhất là thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán Việt Nam thì được tổng hợp vào khoản nợ nước ngoài của Việt Nam.

Để bảo đảm an toàn nợ của quốc gia và nợ của chính phủ, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau đây làm giới hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ quốc gia không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ quốc gia không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách.

3.2 Tác động của nợ chính phủ đến điều hành vĩ mô nền kinh tế

Có hai quan điểm chính về tác động của nợ chính phủ đến điều hành vĩ mô nền kinh tế như sau:

Quan điểm truyền thống cho rằng, biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ có tác dụng kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và làm giảm thu nhập quốc dân trong dài hạn.

Quan điểm khác lại cho rằng, biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn, vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân, mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.

Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế, trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì: a) nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong nước giảm sút; b) nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì, trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể, chính phủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thế nhưng tăng thuế có thể làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao.

Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu để huy động người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng.

Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư… Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn, vì những tác động phụ của nó lại làm giảm tổng cầu.

3.3 Đánh giá về nợ chính phủ hiện nay ở Việt Nam

Tình hình vay nợ của Việt Nam hiện nay được Ủy ban Kinh tế Quốc hội (Tại phiên họp sáng ngày 2-10-2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình kinh tế – xã hội năm 2009 và dự kiến kế hoạch phát triển năm 2010) đã chỉ ra 8 hạn chế, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề nợ chính phủ tăng mạnh (năm 2008 chiếm khoảng 36,5% GDP; năm 2009 ước lên đến 40% GDP; năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP).

Tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 16, tuy các nhà tài trợ đã cam kết dành 8,063 tỉ USD vốn ODA cho Việt Nam trong năm tới (mức kỷ lục từ trước đến nay), nhưng sau khi cam kết tài trợ ODA năm 2010, vấn đề nợ công một lần nữa lại được hâm nóng trong nhóm tư vấn các nhà tài trợ. Trước đó, những kế hoạch phát triển đầy tham vọng của Chính phủ như phát hành trái phiếu chính phủ tổng cộng 146 nghìn tỉ đồng trong nước và khoảng 1 tỉ USD ra nước ngoài trong năm 2010, được cho là có thể khiến nợ công tăng lên nhanh chóng, đã được “mổ xẻ” tại diễn đàn Quốc hội.

a – Liệu nợ công có bảo đảm trong ngưỡng an toàn? Phó Chủ nhiệm ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, ông Trịnh Huy Quách cho biết, quan điểm về ngưỡng an toàn trong tỷ lệ nợ công so với GDP cũng khác nhau. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP, nhưng trên thực tế, ở nhiều nước tỷ lệ này lên đến trên 80% GDP.

Bình luận về những tương quan so sánh kể trên, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Lê Xuân Nghĩa cho rằng, tỷ lệ nợ công của Việt Nam hiện nay thấp hơn rất nhiều so với các nước (Hoa Kỳ khoảng 300% GDP) và nếu nợ công cao hơn nữa, vẫn bảo đảm trong giới hạn an toàn cho phép.

b – Điều đáng bàn chính là cơ cấu nợ. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến cuối năm 2009, cơ cấu nợ công gồm: nợ chính phủ chiếm 79,3%; nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm khoảng 3,1%. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60% (trong đó 85% là vốn vay ODA); nợ trong nước chiếm 40%. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ quốc gia tuy cao, nhưng vẫn trong ngưỡng cho phép, trong khả năng trả nợ của Việt Nam, hằng năm, Chính phủ vẫn dành một khoản ngân sách để trả nợ vay nước ngoài, và chúng ta chưa hề trì hoãn bất kỳ khoản vay nào. Đại diện hai nhà tài trợ quan trọng là Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng đều nhất trí với quan điểm trên.

3.4 Những vấn đề đặt ra khi hoạch định chính sách vay nợ và quản lý nợ chính phủ ở Việt Nam hiện nay

Theo chúng tôi, không phải vì vấn đề nợ chính phủ hiện nay chưa có gì đáng lo ngại, mà chủ quan trong việc vay và sử dụng kém hiệu quả. Vẫn còn nhiều ý kiến trong giới khoa học tỏ ra quan ngại về nguy cơ tiệm cận ngưỡng bất ổn. Trong thời điểm hiện tại, để có thể đánh giá một cách khoa học về tình hình nợ chính phủ hiện nay của Việt Nam nhằm đề ra những giải pháp đúng đắn và kịp thời bảo đảm nợ chính phủ ở mức an toàn, thiết nghĩ cần lưu ý đến những vấn đề sau:

Một là, về chính sách vay nợ và trả nợ của Chính phủ.

Để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã có chính sách huy động vốn trong nước và vay nợ nước ngoài một cách triệt để và có hiệu quả, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các nước đang phát triển như Trung Quốc, Xin-ga-po, Thái Lan, Phi-lip-pin… Khi hoạch định chính sách vay nợ, các nước đều chú ý đến những vấn đề sau:

- Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, kế hoạch ngân sách nhà nước hằng năm, nhu cầu chi tiêu và đầu tư của nhà nước, yêu cầu và nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ. Nhà nước dự kiến mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn hướng vào các đối tượng ở trong và ngoài nước bằng những hình thức huy động vốn thích hợp và có chính sách lãi suất căn cứ vào mặt bằng lãi suất thị trường. Chính sách vay nợ của nhà nước phải lành mạnh hóa nền tài chính tiền tệ quốc gia, góp phần ổn định giá trị đồng nội tệ; mở rộng các hoạt động đầu tư theo định hướng của nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư; góp phần kiến tạo một thị trường tài chính năng động.

- Tiên lượng trước các vấn đề có thể nảy sinh khi tính toán nợ chính phủ. Đó là:

a) Lạm phát chi tiêu thâm hụt ngân sách. Khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng đáng lẽ ra chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất lớn;

b) Tài sản đầu tư. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản chính phủ. Thực ra điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân. Khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay, mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ, đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…;

c) Các khoản nợ tiềm tàng. Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội, mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của người có thu nhập thấp, mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán…

Hai là, sớm hoàn thiện việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý nợ công.

Hiện nay, dự thảo về Luật Quản lý nợ công đã được ban hành với 8 chương và 55 điều. Tuy nhiên, để nội dung của Luật được hoàn thiện, theo chúng tôi, cần làm rõ và bổ sung những nội dung sau:

- Về phạm vi điều chỉnh, để bảo đảm tính thống nhất và tính bao quát của Luật, nên đưa doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này (Điều 1).

- Về tính cụ thể của dự án Luật, Dự thảo Luật còn nhiều quy định chung chung, mang tính luật khung, ví dụ như những quy định ở Điều 26, 27, 29, 33, 41, 46 và một số điều khác. Có khoảng 14 điều giao cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ quy định, mà lẽ ra chúng ta phải quy định rõ trong Luật để thực hiện.

- Về cơ quan quản lý nhà nước đối với việc vay và trả nợ, khoản 2, Điều 15 và Điều 29 của dự thảo Luật cần quy định rõ về cơ quan quản lý nhà nước đối với việc vay trả nợ của các doanh nghiệp, cơ quan có trách nhiệm điều hành hạn mức vay thương mại hằng năm của các doanh nghiệp. Nên tập trung đầu mối quản lý nợ công và có thể đổi mới từ chỗ Ngân hàng Nhà nước quản lý nợ của WB và ADB thành Bộ Tài chính quản lý toàn bộ kể cả vốn ODA, các khoản nợ vì như thế sẽ phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.

- Về việc hoàn trả vốn vay, hiện chưa có quy định rõ về việc bàn giao nợ vay đối với các đối tượng vay nợ, đặc biệt ở chính quyền địa phương khi người quản lý hết nhiệm kỳ.

Ví dụ, những nguồn vốn vay được sử dụng kém hiệu quả, vỡ nợ thì liệu người kế nhiệm có dám nhận việc trả nợ này hay không? Vì vậy đề nghị đưa vào luật để quy trách nhiệm khoản nợ sẽ giao cho ai và được thực hiện như thế nào.

- Về các quy định nợ của chính quyền địa phương, hiện cũng chưa cụ thể, cần phải có quy định rõ hơn. Chẳng hạn, chính quyền địa phương không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ chậm so với yêu cầu sẽ được xử lý như thế nào, xử lý chính quyền địa phương là xử lý ai? Chủ tịch tỉnh hay tập thể nào? Khi địa phương không có đủ khả năng trả nợ thì Chính phủ có bảo lãnh cho chính quyền địa phương hay không và bảo lãnh trong những điều kiện nào?

- Về quản lý nợ địa phương, cần nghiên cứu quy định về trường hợp chính quyền địa phương sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả. Ví dụ, do thiên tai hay những yếu tố nào đó gây ra làm cho họ không đủ khả năng để chi trả, thì Luật phải quy định như thế nào? hoặc nếu những địa phương làm mất cân đối, sử dụng vốn vay sai mục đích thì làm cách nào xử lý chính quyền địa phương này, Chính phủ có bảo lãnh hay không?

- Về quy định đối với vốn vay của nước ngoài, nếu theo Quy định tại Điều 43 Dự thảo Luật quy định đối với vốn vay của nước ngoài, thì đối với những địa phương nghèo, không có khả năng, có nguồn thu ngân sách yếu, thu không đủ chi sẽ rất khó có sức cạnh tranh với các tỉnh giàu để tranh thủ được nguồn vốn vay. Đồng thời, còn rất dễ xảy ra tiêu cực trong vấn đề “chạy dự án”, “chạy nguồn vốn đầu tư”, gây thiệt thòi cho các tỉnh nghèo, nhất là khi “năng lực ngoại giao” yếu. Điều này dễ làm cho tệ nạn “xin – cho” trỗi dậy.

- Về đối tượng bảo lãnh, đề nghị nên xem lại đối tượng bảo lãnh và nên có quy định hạn chế, trong trường hợp nào thì Nhà nước bảo lãnh, làm như vậy thì hiệu quả của việc vay nợ công sẽ tốt hơn. Về việc này, Quỹ Tích lũy của Bộ Tài chính có các số liệu rất đầy đủ. Trong thời gian vừa qua, Quỹ này đã trả nợ như thế nào, thay mặt các tổ chức trả nợ như thế nào, chúng ta khoanh vùng lại để làm sao hạn chế đối tượng được Nhà nước bảo lãnh.

- Về trách nhiệm của các cơ quan cho vay và người vay lại, đề nghị nên quy định rõ trách nhiệm của cơ quan cho vay lại tại Điều 29, khoản 4, điểm c để các cơ quan cho vay thấy rõ trách nhiệm và các nhiệm vụ buộc phải thực hiện. Đặc biệt là nhiệm vụ thẩm định năng lực, khả năng thực hiện và thanh toán của bên vay, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn, các giải pháp khẩn cấp để thu hồi khoản cho vay. Đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 52 để đưa việc quản lý, sử dụng vốn vay không có hiệu quả vào các hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là: Quản lý việc sử dụng vốn vay nợ không đúng quy định, thiếu trách nhiệm, để tổ chức sử dụng vốn vay sai mục đích, gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn vay. Đồng thời, đề nghị quy định chi tiết hơn về trách nhiệm của tổ chức, cơ quan vay lại trong việc sử dụng vốn vay lại tại Điều 29 khoản 5, đặc biệt là trách nhiệm hoàn trả vốn vay của bên vay lại. Ngoài ra, cần thể hiện lại Điều 52, khoản 3 như sau: “không trả hoặc trì hoãn việc trả các khoản vay đến hạn mà không có lý do được bên cho vay chấp thuận”.

- Việc công bố công khai các thông tin về tình hình vay nợ. Dự thảo Luật hiện còn chung chung, chưa thể hiện rõ những vấn đề như thời gian công bố công khai, nội dung các thông tin công bố công khai gồm những vấn đề gì, chính quyền địa phương có phải công bố công khai tình hình vay nợ không? Để tránh tính hình thức, thì nên sửa Điều 50 theo hướng bổ sung quy định trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện công khai thông tin về nợ công của địa phương.

- Về công tác thanh tra, kiểm tra và hiệu quả của nguồn vốn, cần thận trọng khi quyết định thông qua luật này, bảo đảm cho việc vay nợ và trả nợ được nghiêm túc./.

4. Xử lý khoản nợ của pháp nhân trong hoạt động kinh doanh?

Luật sư tư vấn:

Trong trường hợp này bạn chỉ nêu ra căn cứ là A, B, C thành lập một pháp nhân và không hề nêu rõ là pháp nhân đó tồn tại theo loại hình doanh nghiệp nào. Việc xác định pháp nhân đó tồn tại dưới loại hình doanh nghiệp nào đóng một vai trò quan trọng để xác định trách nhiệm mỗi các nhân ( A, B, C ) đối với số nợ 5 tỉ của doanh nghiệp. Như vậy, để xác định được một cách chính xác trách nhiệm của từng thành viên đối với doanh nghiệp như thế nào thì chúng ta sẽ phải chia ra thành từng trường hợp khác nhau.

Thứ nhất, trong trường hợp pháp nhân đó tồn tại dưới loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

Tại Điều 51 Luật doanh nghiệp 2014 nghĩa vụ của thành viên có quy định "Góp đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 48 của Luật này".

Trong câu hỏi của anh (chị ) có đưa ra thì A góp 2 tỷ còn B và C cùng góp 500 triệu, theo quy định nêu trên thì các thành viên đều phải chịu trách nhiệm các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi vốn đã góp. Như vậy tương ứng với số nợ đã góp thì A, B, C sẽ phải chịu trách nhiệm bằng tỉ lệ số vốn của từng người góp vào công ty.

Thứ hai, trong trường hợp pháp nhân đó tồn tại dưới dạng công ty cổ phần.

Quy định về nghĩa vụ cổ đông tại Điều 110 Luật doanh nghiệp 2014 về công ty cổ phần: Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Như vậy, cũng giống như đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì các cổ đông có trách nhiệm với công ty trong phạm vi vốn đã góp.

Thứ ba, trong trường hợp pháp nhân đó tồn tại dưới hình thức công ty hợp danh.

Điều 172 Luật doanh nghiệp 2014 có quy định “ Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty”. Khác với hai loại hình doanh nghiệp trên thì thành viên công ty hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình nghĩa là ngoài phạm vi số vốn đã góp thì các thành viên của công ty còn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng số tài sản của mình. Trong trường hợp này số vón góp được của A, B, C là 3 tỷ nhưng số nợ lên đến 5 tỉ nghĩa là 4 tỷ còn lại A, B, C liên đới cùng nhau thực hiện nghĩa vụ của mình với công ty bằng tài sản riêng của mỗi người.

5. Đòi nợ doanh nghiệp thực hiện như thế nào?

Chào Luật sư công ty Luật Hòa Nhựt, Công ty chúng tôi xin được tư vấn một số vấn đề sau: Công ty Chúng tôi có một khoản nợ từ Công ty Cổ Phần ĐT (Hà Nội) từ năm 2011 (về xây dựng công trình) Công ty chúng tôi đã thuê một Công ty luật ở TP HCM, các thủ tục ra tòa án Quận 2 đã hoàn thành và Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 2 đã quyết định ủy thác cho Chi Cục thi Hành án Dân sự huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Một thời gian chúng tôi nhận được quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Từ Liêm. Thực sự Công ty chúng tôi không biết làm gì để đòi lại được số tiền trên. Chi Nhánh Công ty này tại TP HCM thay đổi liên tục nên không thể liên lạc đượ ?

Mong công ty tư vấn giúp để có thể đòi được số tiền trên. Chân thành cảm ơn!

Trả lời

Căn cứ theo Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung 2014 thì quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án đã bị bãi bỏ và chỉ có quy định xác định việc chưa có điều kiện thi hành án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 44a luật thi hành án (Văn bản hợp nhất 12/VBHN-VPQH năm 2014 hợp nhất Luật thi hành án dân sự). Nếu không thuộc một trong các trường hợp được nêu tại Điều 44a thì Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Từ Liêm vẫn tiếp tục thực hiện phần ủy thác của mình theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Luật Thi hành án

Điều 57. Thực hiện ủy thác thi hành án

2. Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành án.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.

Do vậy bạn có thể đến gặp trực tiếp cơ quan thi hành án dân sự huyện TL để yêu cầu lại vì cơ quan Thi hành án dân sự huyện TL vẫn có thẩm quyền theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự.

Điều 35. Thẩm quyền thi hành án

1. Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây:

d) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác.

Do vậy sau khi có bản án của Tòa án Quận 2 rồi thì bạn có thể nhờ đến cơ quan thi hành án nơi có có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 55 để thi hành bản án và lấy lại số tiền trên.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.868644 hoặc gửi qua email: [email protected] để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Hòa Nhựt. Rất mong nhận được sự hợp tác!